Chủ Nhật, 30 tháng 6, 2013

Chiếc gương của Matsuyama



Ngày xưa ở vùng xa xôi của nước Nhật có một đôi vợ chồng cùng cô con gái nhỏ tên là Matsu Yama sinh sống. Cô con gái được bố mẹ yêu quý và cực kì cưng chiều. Một lần người chồng phải lên Kyoto xa xôi để làm việc. Trước khi đi, ông nói với cô con gái rằng nếu cô bé ngoan ngoãn và biết vâng lời mẹ thì ông sẽ mang về cho cô một món quà quý. Sau đó ông lên đường. Người vợ và cô con gái từ đây háo hức chờ mong ngày ông trở về.

Cuối cùng ông bố trở lại nhà. Sau khi chờ người vợ và cô con gái nhỏ gỡ giúp chiếc mũ rộng và đôi dép, ông ngồi xuống chiếc chiếu trắng, mở chiếc làn tre và trìu mến nhìn cô bé. Ông lấy ra một con búp bê xinh xắn và một chiếc hộp đựng bánh làm bằng gỗ sơn đặt vào đôi tay cô bé. Lần nữa ông thò tay vào chiếc làn và giơ cho vợ xem một chiếc gương kim loại. Bề mặt lồi của chiếc gương sáng bóng trong khi trên mặt sau của nó có trang trí những họa tiết hình cây thông và con cò. Người vợ chưa bao giờ nhìn thấy tấm gương nào trước đó vì thế khi nhìn vào tấm gương, người vợ rất ngạc nhiên khi thấy có một người phụ nữ khác cũng đang ngắm nhìn mình. Người chồng giải thích sự kì diệu của chiếc gương và bảo người vợ chăm sóc cẩn thận món quà này.

Không lâu sau ngày người chồng trở về nhà, người vợ ốm nặng. Trước lúc nhắm mắt bà gọi cô bé Matsu Yama lại và nói: “Con gái yêu của mẹ, khi mẹ chết con hãy nhớ chăm sóc cha. Con sẽ nhớ mẹ khi mẹ rời xa con. Nhưng con hãy giữ tấm gương này. Khi nào con cảm thấy cô đơn nhất, con hãy nhìn vào đó, con sẽ luôn luôn nhìn thấy mẹ”. Nói xong người mẹ qua đời. Một thời gian sau người đàn ông lấy thêm người vợ nữa. Bà mẹ kế này không hề tốt với cô bé một chút nào. Nhưng cô gái nhỏ ghi nhớ những lời mẹ dặn, những lúc buồn cô trốn vào một góc và nhìn vào tấm gương. Trong tấm gương, cô bé nhìn thấy khuôn mặt người mẹ đã khuất, không phải khuôn mặt đầy đau đớn trên giường bệnh mà là khuôn mặt trẻ trung và xinh đẹp.

Một lần đứa con gái của bà mẹ kế tình cờ nhìn thấy cô bé núp trong một góc khuất và đang rì rầm một mình. Bà mẹ kế vốn ghét cay ghét đắng cô bé cho nên khi nghe con gái mách chuyện, mụ tin rằng đứa con chồng cũng căm ghét mụ và đang làm trò ma thuật để làm hại mụ ta. Với tất cả những ý nghĩ đó, bà mẹ kế đi mách với người chổng rằng đứa con độc ác của ông đang cố gắng giết chết mụ bằng trò phù thủy.

Khi nghe xong câu chuyện dị thường đó, ông bố liền đi thẳng tới phòng cô con gái. Ông bố đến thật bất ngờ nên khi nhìn thấy bố cô bé ngay lập tức thả tấm gương vào ống tay áo. Và lần đầu tiên người cha trở nên giận dữ, và ông hoảng sợ khi những điều bà vợ nói với ông đã thành sự thực. Ông bố nhắc lại những lời của bà mẹ kế ngay tức khắc. Cô bé vô cùng ngạc nhiên trước lời cha cô nói. Cô nói với cha rằng cô rất yêu ông và cô chưa bao giờ có ý giết người mẹ kế , người mà cô biết luôn tốt với cha. “Thế con vừa giấu cái gì vào tay áo thế?” ông bố hỏi với giọng nửa tin nửa ngờ. “Đấy là chiếc gương cha tặng mẹ và trước khi mất mẹ đã trao lại cho con. Mỗi lần con nhìn vào mặt tấm gương sáng bóng đó con lại nhìn thấy gương mặt mẹ thân yêu trẻ trung và xinh đẹp. Mỗi khi trái tim con đau đớn, con lấy ra chiếc gương và gương mặt mẹ với nụ cười hiền hậu ngọt ngào mang đến cho con sự yên bình và giúp con chịu đựng được công việc nặng nhọc và những cái nhìn cáu gắt.

Ông bố chợt hiểu và thêm yêu mến đứa con gái hiếu thảo. Và thậm chí cả đứa con gái của bà mẹ kế khi biết chuyện cũng cảm thấy xấu hổ và cầu xin cô bé tha thứ. Và cô bé người, đã nhìn thấy mẹ mình trong tấm gương kì diệu đã sẵn lòng tha thứ. Từ đấy hạnh phúc trở lại trong căn nhà họ mãi mãi.

Chiếc nón của Jizo - Sama


Ngày xửa ngày xưa, ở một ngôi làng nọ, có một đôi vợ chồng già sống cùng nhau. Họ nghèo đến nỗi không có nổi một cọng rơm để lợp mái nhà. Năm ấy, dù sắp đến Tết nhưng trong nhà chẳng còn một hạt gạo. Nghe thấy tiếng chày giã bánh gạo bắt đầu rộn rã xa gần, ông lão nói:

- Tiếng giã bánh lúc nào cũng là âm thanh tốt lành bà nó nhỉ?

- Ừ, tôi với ông cũng phải kiếm gì chuẩn bị đón năm mới thôi, bà lão trả lời.

- Được, tôi sẽ lên phố bán củi kiếm chút tiền sắm sửa – ông lão đáp.

Nói xong, ông lão gùi bó củi lớn trên lưng và bước ra khỏi nhà. Ngoài trời, mây đen kéo đến xám xịt. Áng chừng tuyết có thể rơi bất cứ lúc nào, bà lão nói:

- Ông nó ơi, ông nhớ cẩn thận đấy.

- Bà đừng lo, tôi sẽ mua thật nhiều đồ dùng và thức ăn để nhà mình ăn Tết – ông lão vẫy chào vợ và lên đường.

Đường phố giáp Tết nhộn nhịp hơn bao giờ hết. Tuy nhiên, mặc dù ông lão gắng sức rao to: “Ai mua củi đây! Ai mua củi đây”, nhưng không ai để ý đến ông cả. Ông lão buồn rầu nghĩ đến người vợ ở nhà, chắc bà lão sẽ thất vọng lắm. Khi những bông tuyết đầu tiên rơi xuống, ông lão đành mệt mỏi thu dọn và ra về. Trên đường về, ông lão gặp một người bán nón lá đang ngồi buồn bã dưới một gốc cây to. Người bán nón nói:

- Ồ, lão bán củi đấy à. Ông có bán được hàng không vậy?

- Không ông ạ, ông lão buồn bã đáp.

- Tôi cũng vậy đấy – người bán nón thở dài.

- Thế là chúng mình đều không bán được hàng nhỉ, ông có muốn đổi nón của ông lấy củi của tôi không? Ông lão hỏi người bán nón.

- Dù sao thì bây giờ, ý kiến của ông cũng là tốt nhất rồi.

Nói đoạn, hai ông lão trao đổi hàng cho nhau.

Ôi trời, muộn quá rồi, mau về thôi – ông lão tự nói với mình.

Đeo những chiếc nón trên vai, ông rảo bước về nhà. Những bông tuyết lặng lẽ rơi xuống làm cảnh vật khắp nơi khoác lên mình một chiếc áo trắng tinh. Vừa đi ông lão vừa xuýt xoa: “Ôi, rét quá, rét quá…”. Đang đi trên đường, bỗng nhiên ông nhìn thấy bảy bức tượng Jizo-sama đứng bên đường. Ông lão vội đứng lại và chắp hai tay lại khấn:

- Cho dù không có gì trong tay, xin ngài phù hộ cho gia đình con được sống mạnh khỏe.

Khấn xong, ông lão ngẩng mặt lên nhìn bảy bức tượng. Tuyết đã phủ dày trên đầu chúng. Ông lão thốt lên:

- Ôi trời, chắc các ngài lạnh lắm nhỉ.

Sau đó, ông lão vội lấy tay gạt hết tuyết trên đầu những bức tượng, rồi lấy số nón sau lưng đội cho từng bức tượng một. Thế nhưng trên tay ông chỉ có sáu chiếc nón, vì thế một bức tượng không có gì để đội. Ông lão suy nghĩ một lúc rồi tháo chiếc khăn trùm đầu của mình đội cho bức tượng còn lại. Nhìn bảy bức tượng Jizo-sama, tự nhiên, ông lão thấy lòng mình ấm lại.

- Rồi các ngài sẽ ổn thôi, ông lão nói và bước tiếp về nhà.

Về đến nhà, ông lão gọi vợ:

- Bà nó ơi, tôi về rồi đây.

- Ôi trời, ông nó, chắc ông lạnh lắm nhỉ. Ông có mua được thứ gì tốt không?

- À, hôm nay củi không bán được, tôi đành đổi củi lấy mấy cái nón của ông bán nón lá ở trên phố. Nhưng chỗ nón đổi được, tôi đã đem dâng lên các Jizo - Sama hết rồi.

Thế rồi, ông lão kể hết cho bà lão nghe những chuyện ông đã làm ngày hôm đó. Bà lão nghe xong đáp:

- Ôi, thế là ông đã làm được một việc rất tốt đấy. Nào, nhanh vào nhà thôi ông.

Ông lão vào nhà và ngồi xuống cạnh bếp lửa, ông nói với vợ:

- Bây giờ, chắc các Jizo - Sama thấy ấm áp lắm nhỉ.

- Ừ, chắc chắn rồi, tôi với ông cùng nghĩ về Jizo - Sama và đón năm mới thôi, người vợ đáp.

Nói xong, hai vợ chồng ông lão cùng ăn chút cháo kê còn lại trong nhà và đi ngủ sớm.

Vào đêm đó, khi đang ngủ, hai vợ chồng ông lão bỗng nghe thấy tiếng người ta bê đồ gì nặng lắm ngoài cửa. Ông lão thắc mắc:

- Sao lại có tiếng ồn như thế vào giờ này nhỉ?

Nói đoạn, ông trở dậy và mở cửa. Bỗng dưng, ông nhìn thấy rất nhiều thức ăn và bánh gạo được đặt trước nhà mình. Đoán được là của Jizo - Sama tặng, ông lão nói lớn:

- Jizo - Sama, xin đội ơn ngài.

Hai vợ chồng ông lão nghèo vội chắp tay lại và cầu mong cho Jizo - Sama lại gõ cửa nhà mình khi ngày đầu tiên của năm mới tới.

Nàng hạc


Thuở xưa, tại một thôn làng nhỏ bé dưới chân núi Phú-Sĩ-Sơn, có một cặp vợ chồng rất nghèo. Chồng làm nghề săn bắn, còn vợ làm nghề dệt lụa. Tài năng của hai người rất giới hạn, tuổi cũng đã cao cho nên đời sống vật chất của họ rất chật vật, nhiều lúc chỉ cố gắng mà sống theo từng bữa một.

Hôm ấy, người thợ săn không được may mắn, chẳng săn được con mồi nào cả. Trên đường về nhà, ông ta tình cờ bẫy được một con chim hạc. Người thợ săn mừng rỡ, định đem về nhà làm thịt cho bữa cơm chiều thì con chim hạc bỗng ứa nước mắt van xin, nói rằng:

-Lạy ông, xin tha mạng cho con. Đức hiếu sinh của ông sẽ được cả Phật-Tổ lẫn Thái-Dương Thần-Nữ chứng giám và đền bù lại xứng đáng.

Người thợ săn nghe nói động lòng, liền thả cho con chim hạc bay đi, đoạn trở về nhà tay không. Cho dù không có thịt, hai vợ chồng vẫn vui vẻ ăn rau và đậu hũ, sống đạm bạc cho qua bữa như mọi ngày.

Tối hôm ấy trời bão tuyết, gió thổi lạnh buốt. Nghe có tiếng người gọi bên ngoài, bà vợ ra mở cửa. Trước mặt bà, một người con gái trông rất hiền hậu, mặt mày tươi tỉnh xinh xắn, hình dung đẹp tuyệt vời, da dẻ trắng nõn nà, cho biết nàng ta lỡ đường xin được vào tá túc qua đêm để tạm tránh cơn bão tuyết. Hai vợ chồng vốn bản chất hiền hòa lương thiện, hay thương người nên gật đầu ưng thuận ngay.

Sáng hôm sau, như thường lệ hai vợ chồng thức dậy sớm thì trông thấy người con gái đang pha trà và nấu cháo. Nhà cửa được dọn dẹp sạch sẽ ngăn nắp. Các căn phòng được trang hoàng lại, trông khang trang và sáng sủa hơn trước rất nhiều. Ngoài ra, còn có sẵn cả nước nóng cho hai người rửa mặt. Đâu ra đó hẳn hoi, thật là hết sức chu đáo.

Nhìn người con gái, hai ông bà nở một nụ cười hiền dịu, tỏ ra hết sức cảm kích. Hỏi thăm chuyện, người con gái thật tình cho hai người biết rằng nàng tên là Tuyết xa cha mẹ từ nhỏ, từ lâu ở chung với gia đình chú thím. Khi nghe được tin cha mẹ trên tỉnh thành, nàng một mình lên đường đi tìm nhưng không gặp đành quay trở về nơi cũ. Dọc đường vì gặp bão tuyết, trời lại tối cho nên bất đắc dĩ phải xin hai người cho tá túc đỡ, đợi cho cơn bão tuyết nhẹ đi bớt mới có thể tiếp tục lên đường được.

Bà vợ hỏi:

-Con nghe được tin cha mẹ từ ai nói?

Người con gái lễ phép thưa:

-Thưa, từ chú thím con.

Ông chồng lắc đầu, thương hại nói:

-Thôi rồi! Con trúng kế của chú thím con rồi! Họ muốn lập mưu đuổi con đi ra khỏi nhà đó thôi! Ta tin chắc họ không mở rộng vòng tay mà đón con trở về nữa đâu.

Người con gái nghe nói liền lộ vẻ buồn bã cúi gầm mặt xuống đất. Sau một vài giây phút im lặng, bà vợ liền đề nghị:

-Chúng ta đã lớn tuổi mà lại hiếm hoi. Nếu có được một đứa con gái như con thật không còn gì vui hơn được. Nếu con không chê vợ chồng chúng ta nghèo khó thì cứ ở lại đây với hai ông bà già này, no cùng hưởng, đói cùng chịu. Tôi nói vậy phải không ông già?

Ông chồng mừng rỡ nói:

-Phải! Phải! Chúng ta sẽ nhận con làm con ngay từ giờ phút này, miễn là con đừng chê chúng ta thôi.

Người con gái nghe nói rất cảm động liền quỳ xuống lạy hai ông bà, nhận làm cha mẹ và xin hai người đặt lại tên cho nàng. Ông chồng nặn óc suy nghĩ một hồi. Chợt nhớ lại hôm qua đi săn có tha mạng cho một con chim hạc, ông ta liền nói:

-Tốt lắm, từ nay cha đặt tên lại cho con là Hạc.

Từ đó, nàng Hạc ở lại với cặp vợ chồng già, làm con gái ông bà. Nàng rất thương cha mẹ, rất đảm đang, lo hết tất cả việc nhà, bếp núc đâu ra đó cẩn thận, lại hầu hạ cha mẹ từng miếng ăn cho đến giấc ngủ. Dù sống trong cảnh thiếu thốn nhưng cả ba người rất vui vẻ thuận hòa, chẳng ai ngần ngại hay phàn nàn một tiếng.

Tuy nhiên, thực tế vẫn là thực tế. Lợi tức gia đình không tăng, mà lại thêm một ‘miệng ăn’ cho nên gia đình càng lúc càng thêm chật vật. Nhưng trong cái khó khăn cũng tạo cho họ một tình thương gắn bó rất là sâu đậm và hiếm có. Nhiều bữa ăn rất đơn sơ chẳng có được bao nhiêu món, thế mà đồ ăn vẫn không lúc nào hết bởi vì cả ba người đều muốn nhường cho nhau cả, thành thử chẳng một ai dám ăn.

Biết được hoàn cảnh khó khăn của gia đình, một hôm, nàng Hạc bàn với cha mẹ nàng rằng:

-Con biết dệt lụa khá giỏi, xin cha mẹ cho con làm thử để kiếm thêm ít tiền phụ cho gia đình.

Vào lúc bình thường có lẽ ông bà đã từ chối, nhưng vì thấy gia đình càng ngày càng sa sút nên không còn đường nào lựa chọn, hai người đành phải nghe lời, để cho nàng thử.

Nàng Hạc lại nói:

-Chỉ có một điều trở ngại là trong khi con dệt lụa, con muốn thật yên tĩnh, không bị chi phối bởi bất cứ một chuyện gì lớn nhỏ. Vì vậy, xin cha mẹ đừng nhìn con lúc con đang làm việc, cứ để yên cho con làm xong. Và cũng xin cha mẹ giữ gìn hộ con, đừng để cho bất cứ một ai lai vãng, vì nếu như vậy con không thể nào làm được, mọi việc sẽ hỏng hết.

Cha mẹ nàng nghe nói liền dành riêng một phòng đàng sau nhà cho nàng Hạc làm việc mà không hề thắc mắc. Ông bà tin rằng nàng có nghề thật, nhưng có lẽ vì không muốn để cho ai học lóm nghề của mình cho nên muốn giữ kín bí mật tối đa.

Sáng hôm sau khi thức dậy, cha mẹ nàng Hạc nhìn thấy những tấm lụa tuyệt đẹp mà có lẽ trong đời ông bà chưa từng bao giờ thấy qua. Mẹ nàng reo lên:

-Đẹp quá! Đẹp quá! Những tấm lụa này nếu bán ra chắc chắn được cao giá, mà thiên hạ lại giành giựt nhau mà mua.

Điểm tâm xong, mẹ của nàng Hạc dắt nàng đến các vùng tỉnh thành lân cận để tìm mối bán lụa kiếm ít tiền. Đúng như lời mẹ của nàng Hạc đã nói, hai người chỉ vừa vào đến cổng thành đã có không biết bao nhiêu người chủ hàng tơ lụa và nhiều nhà giàu xúm lại bao quanh, đấu giá mua cho được những tấm lụa thật đẹp mà chính họ cũng chưa bao giờ được thấy qua. Số tiền bán được ngày hôm đó đủ để cho gia đình chi dụng được trong vài tháng.

Thấy cha mẹ vui vẻ, nàng Hạc vô cùng sung sướng. Cứ cách vài ngày là nàng lại tiếp tục dệt lụa vào ban đêm khi cha mẹ nàng đi nghỉ. Và cha mẹ nàng vẫn giữ lời hứa, không làm phiền nàng hay lai vãng trước phòng dệt của nàng lúc nàng làm việc. Dệt xong, nàng lại theo mẹ đem lên tỉnh thành bán kiếm tiền. Ban đầu, hai mẹ con còn đi chung, nhưng dần dần, quen thuộc đường lối, nàng Hạc đề nghị mẹ nàng nên ở nhà nghỉ cho khỏe, để một mình nàng đi là đủ. Mẹ nàng nghe nói cũng nghe theo, để cho một mình nàng đi kể từ đó…

Vài năm trôi qua. Gia đình nàng Hạc giờ đây đã trở nên giàu có, dư giả. Nhờ tài dệt lụa ‘có một không hai’ của nàng, số người đặt mua càng ngày càng nhiều. Mặc cho nàng ra công ra sức, thức thâu đêm suốt sáng làm việc bao nhiêu, số lụa là sản xuất gần như vẫn không thể nào đáp ứng được với mức tiêu thụ của thiên hạ. Hễ thấy lụa của nàng Hạc dệt ra là ai nấy quyết phải mua cho bằng được, bất luận là bao nhiêu tiền.

Nhiều người vì chậm tay không mua kịp, đã thầm lén lút theo dấu chân nàng Hạc về tận nhà cho biết chỗ, dự tính trong tương lai sẽ đến tận nhà hỏi mua thì may ra mới có được hàng. Số người tìm đến nhà mua ban đầu chỉ có một vài người, nhưng dần dà gia tăng với số lượng khủng khiếp. Và rồi nàng Hạc cũng chẳng cần phải đi đâu nữa, tự động thiên hạ rủ nhau tìm đến mà mua hàng. Khi đó, chỉ thỉnh thoảng nàng Hạc mới phải lên tỉnh để bỏ mối cho những hàng tơ lụa mua với số lượng nhiều. Mỗi lần đi như vậy, nàng đều mướn vài chiếc xe ngựa mà chở chứ không thể nào một mình mà đem hết lụa đi được.

Nhiều nhà giàu tìm gặp nàng Hạc, hứa sẽ tặng cho nàng những món tiền khổng lồ nếu nàng chịu dạy cho con gái của họ nghề dệt lụa độc đáo của nàng. Trước những lời đề nghị đó, nàng Hạc chỉ lắc đầu từ chối, quyết không chịu nhận tiền của ai, mà cũng nhất định không chịu truyền nghề.

Bị cự tuyệt, nhiều người đâm ra giận dữ, thù ghét nàng Hạc. Những khi đến mua hàng, nhằm lúc nàng Hạc bận bịu dệt lụa không chịu tiếp ai, họ thường nói với cha mẹ nàng rằng:

- Tôi đồng ý rằng lụa của con gái ông bà dệt đẹp thật. Nhưng bán được với những giá cao để cho gia đình ông bà có được một sản nghiệp to lớn như thế này thì thật là điều khó tin. Xin ông bà đừng quên con gái của ông bà có nhan sắc, mỗt lần lên tỉnh bán lụa có tiếp xúc với rất nhiều đàn ông con trai nhà giàu trên đó. Tôi vì thương ông bà nên mới nhắc khéo để cho ông bà ráng mà gìn giữ con gái để tránh tai tiếng về sau đó thôi.

Trước những lời gièm pha của thiên hạ, cha mẹ nàng Hạc đều gạt cả đi chứ chẳng thèm bận tâm đến làm gì. Họ luôn luôn tin tưởng vào đức hạnh của con gái mình, không bao giờ nghĩ rằng một người con gái như nàng có thể làm việc gì tai tiếng cho gia đình được.

Nhưng rồi số người gièm pha mỗi lúc mỗi nhiều. Một đồn năm… Năm đồn mười… Mười đồn trăm…

Có người bảo rằng:

-Hãy nhìn cái thân xác mỗi ngày một tiều tụy của nàng Hạc ắt có thể suy ra được những việc nàng có thể dính líu đến.

Lại có người nói:

-Con gái ông bà bảo khi nàng dệt vải không ai được nhìn phải không? Và ông bà bằng lòng, chiều cô ta tuyệt đối chứ gì? Vậy cô ta làm những gì trong phòng đó với ai liệu ông bà có biết được không? Đừng quên rằng lúc ông bà ngủ thì cô ta vẫn thức mà ‘làm việc’ đấy nhé!

Hoặc:

-Những lần lên tỉnh, có thật sự là con gái ông bà chỉ có mục đích bán lụa không thôi?

Rốt cuộc, cho dù thương yêu tin tưởng con gái mình đến cách mấy, những lời thị phi kia đã làm cho cha mẹ nàng Hạc không thể nào còn tự chủ được nữa. Hai người bắt đầu nghi ngờ đến hành vi của người con gái thân yêu của họ, và cho rằng những lời nói của đám đông thật là có lý, và họ cần phải điều tra con gái mình mới biết rõ được hư thực ra sao.

Đêm hôm đó, cặp vợ chồng già giả vờ đi ngủ sớm. Đợi đến lúc gần nửa đêm, lúc nàng Hạc đóng chặt cửa phòng lại để dệt lụa như thường khi, hai ông bà mới bàn với nhau thử lén ra ngoài, đi vòng ra phía sau nhìn vào cửa sổ trong phòng xem có phải là con gái mình có làm việc thật không hay lại làm chuyện gì mờ ám, dùng cớ dệt lụa để che mắt họ.

Hai ông bà cùng nhau đi thật nhẹ nhàng ra bên ngoài, đến phía sau phòng làm việc của nàng Hạc. Khi đến gần cửa sổ, hai người nghe rõ mồn một những tiếng ‘cộp cộp’ vang lên thật đều đặn.

Lấy làm lạ, hai người khẽ nhón mình dậy nhìn vào theo ánh đèn lờ mờ qua phên cửa sổ. Cả hai ông bà bỗng như kinh hãi, cùng giật mình đánh thót một cái. Trên khung cửa sổ màu trắng đục qua ánh đèn, hai người nhìn thấy rõ ràng… cái bóng của một con chim hạc đang dùng mỏ mổ liên tiếp vào con thoi…

Hai người đang trợn tròn há hốc thì bỗng nghe con hạc kêu lên một tiếng hết sức bi ai. Hai người chưa biết phải làm gì thì từ bên trong, nàng Hạc, con gái của họ mở cửa phòng chạy ra, với gương mặt hết sức xanh xao tiều tụy, gần như đã kiệt sức hoàn toàn.

Nàng Hạc nhìn cha mẹ, buồn rầu nói:

-Con đây chính là con chim hạc đã được cha tha mạng lúc trước. Chính vì vậy nên con mới quyết định đến nhà này chịu làm con của cha mẹ để đền đáp ơn sâu đó. Con đã dặn với cha mẹ rằng đừng bao giờ nhìn con trong lúc con đang làm việc cả, vì như thế, phép thuật của con sẽ mất hết linh nghiệm, còn có hại đến cả tánh mạng của con, và rồi con sẽ phải hiện nguyên hình mà trở lại kiếp chim hạc. Cha mẹ đã không tin con thì thôi, sao lại còn làm hỏng hết việc tu luyện thành người của con? Từ nay con không còn ở đây để phụng dưỡng cha mẹ được nữa đâu, mà phải trở lại kiếp ‘hạc kêu sương’ để tu luyện lại từ đầu thôi. Xin cha mẹ bảo trọng. Vĩnh biệt!

Nói dứt lời, nàng Hạc ngã lăn xuống đất nằm im bất động, ngừng thở. Hai vợ chồng già lúc đó mới hiểu rõ được căn nguyên mọi việc. Ông bà ăn năn chẳng cùng, nhưng tất cả đã muộn màng. Cả hai người chỉ còn biết ôm lấy xác nàng Hạc mà hôn, than khóc chẳng cùng. Đôi mắt của nàng Hạc chợt ứa ra hai hàng lệ rồi từ từ nhắm nghiền lại.

Chỉ một lúc sau, xác của nàng Hạc bỗng nhiên từ từ biến thành một con chim hạc, đứng bật dậy vỗ cánh mấy cái. Nhìn hai người, con hạc kêu lên mấy tiếng thật bi thương rồi tung đôi cánh bay lên không.

Đôi vợ chồng già đứng nhìn theo bóng hạc mỗi lúc một khuất dần trong màn đêm cho đến khi mất hút…

Thứ Bảy, 29 tháng 6, 2013

Sự tích Trầu, Cau và Vôi


Ngày xưa, một nhà nọ có hai anh em ruột là Tân và Lang, đặc biệt dáng người và mặt mày giống nhau như đúc, đến nỗi chính người nhà cũng nhiều phen nhầm lẫn. Cha họ là một người cao to nhất trong vùng đã từng được vua Hùng triệu về Phong Châu ban thưởng và đặt tên là Cao.

Từ đó gia đình lấy tiếng “Cao” làm tên họ. Hai anh em lớn lên thì cha mẹ nối nhau qua đời. Cả anh lẫn em quyến luyến nhau không chịu rời nửa bước. Người cha trước khi mất có gửi gắm Tân cho một đạo sĩ họ Lưu. Nhưng khi Tân đến theo học thì Lang không chịu ở nhà một mình, chàng cũng cố xin cùng được học với anh một thể. Nhà họ Lưu có một cô con gái cũng cùng lứa tuổi với họ. Để tìm hiểu người nào là anh người nào là em, một hôm cô gái họ Lưu bày ra một mẹo nhỏ. Giữa lúc họ đang đói, nàng chỉ dọn cho họ một bát cháo với một đôi đũa. Đứng sau khe vách, nàng thấy người này nhường cháo cho người kia ăn. Nàng lẩm bẩm: “à ra anh chàng vui tính kia là anh!”. Từ đó giữa Tân và cô gái có nhiều cuộc gặp gỡ. Tình yêu giữa hai người mỗi ngày một khăng khít.

Thấy thế, đạo sĩ họ Lưu vui lòng gả con cho Tân. Sau khi cưới, hai vợ chồng đến ở một ngôi nhà mới, có Lang ở chung. Từ ngày lấy vợ, Tân tuy vẫn chiều chuộng em nhưng không âu yếm em như trước nữa. Trước kia Lang thường được anh chăm sóc nhưng bây giờ thì chàng có nhiều ngày cô đơn. Lang nhận thấy nhiều khi Tân muốn lánh mình. “Phải rồi, anh ấy mê vợ quên ta”. Trong lòng Lang đầy chán nản buồn bực. Một hôm Lang và Tân cùng lên nương đến tối mịt mới về. Lang về trước. Chàng vừa bỏ chân lên ngưỡng cửa thì vợ Tân từ trong buồng chạy ra ôm chầm lấy mình. Lang kêu lên. Cái nhầm của chị dâu làm cho cả hai người cùng ngượng nghịu xấu hổ. Giữa lúc đó thì Tân bước vào nhà. Từ đây Lang lại biết thêm một tính tình mới của anh. Tân ghen. Cái ghen càng tăng thêm sự hững hờ của Tân đối với chàng. Lang vừa giận vừa thẹn. Chàng muốn bỏ nhà ra đi cho bõ ghét. Một hôm trời mới mờ sáng, Lang quyết định khởi hành. Chàng cứ theo con đường mòn đi mãi, trong lòng đầy bực bội oán trách. Đi luôn mấy ngày đường, Lang tới bờ một con sông lớn. Thấy nước chảy xiết, chàng lấy làm ngại ngùng. Xung quanh không nghe qua một tiếng gà gáy chó sủa. Nhưng Lang quyết không chịu trở lại. Lang ngồi cúi gục trên bờ, ôm mặt khóc. Chàng khóc mãi, khóc mãi, đến nỗi những con chim đi kiếm ăn khuya vẫn còn nghe tiếng nức nở. Sáng hôm sau, Lang chỉ còn là một cái xác không hồn. Chàng đã hóa đá.

Tân thấy mất hút em thoạt đầu không để ý. Mãi sau vẫn không thấy em về, Tân bổ đi tìm các nhà quen nhưng cũng không thấy tăm dạng. Biết là em bỏ đi vì giận mình, chàng lấy làm hối hận. Hôm sau nữa, cũng không thấy về, Tân hoảng hốt để vợ lại nhà, cất bước đi tìm. Sau mấy ngày, chàng đã đến bờ một con sông rộng. Không có cách gì qua được, Tân đi men dọc sông, cuối cùng thấy em đã hóa thành đá. Tân đứng bên cạnh hòn đá khóc mãi cho đến lúc chỉ còn có tiếng nước cuồn cuộn chảy dưới bờ mà thôi. Tân chết và hóa thành một cây thân mọc thẳng lên trời, bên cạnh hòn đá. Vợ Tân chờ mãi không thấy chồng về, cũng bỏ nhà đi tìm. Nhưng cuối cùng con sông nọ cũng ngăn cản bước chân của nàng. Người đàn bà ấy ngồi lại bên cạnh cây, khóc cạn cả nước mắt. Và sau đó nàng chết hóa thành một cây dây quấn quanh lấy cây kia. Đợi mãi không thấy ba người về, vợ chồng đạo sĩ nhờ mọi người chia nhau tìm kiếm. Trước hòn đá và hai cây lạ, họ chỉ còn biết dựng miếu thờ cả ba người trẻ tuổi ở ven sông. Nhân dân quanh vùng gọi là miếu “anh em hòa thuận, vợ chồng tiết nghĩa”.

Về sau, một năm nọ trời làm hạn hán rất dữ. Mọi cây cỏ đều khô héo cả. Duy hai cây mọc bên cạnh hòn đá trước miếu là vẫn xanh mượt. Mọi người cho là linh dị. Vua Hùng một hôm ngự giá qua xứ đó. Khi đi qua trước miếu, vua hơi ngạc nhiên vì cảnh lạ cây lạ: “Miếu này thờ vị thần nào? Mấy loại cây này ta chưa từng thấy bao giờ? ” Để trả lời câu hỏi của vua, Lạc tướng cho gọi mấy cụ già ở quanh vùng đến hỏi. Hùng Vương càng nghe, không ngăn được sự cảm động. Vua vạch lá trèo lên nhìn khắp mọi chỗ. Đoạn, vua sai một người trèo cây hái quả xuống nếm thử. Vị chát không có gì lạ. Nhưng khi nhai với lá cây dây thì một vị là lạ đến ở đầu lưỡi: nó vừa ngon ngọt, vừa thơm cay. Tự nhiên có một viên quan hầu kêu lên: “Trời ơi! Máu!” Mọi người giãn ra kinh ngạc. Thì ra những bãi nhai quả và lá của hai thứ cây đó một khi nhổ xuống đá bỗng đỏ ối ra như máu. Vua sai lấy cả ba thứ nhai lẫn với nhau thì bỗng thấy người nóng bừng như có hơi men, môi đỏ tươi, sắc mặt hồng hào tươi đẹp. Vua bảo:

- Thật là linh dị! Đúng là họ rồi! Tình yêu thương của họ thật là nồng nàn thắm đỏ. Từ đó vua Hùng ra lệnh cho mọi nơi phải gây giống cho nhiều hai loại cây ấy. Điều đáng chú ý là luật của nhà vua bắt buộc trai gái khi kết hôn thế nào cũng phải tìm cho được ba món: trầu, cau và vôi cho mọi người ăn để ghi nhớ tình yêu không bao giờ phai lạt. Vì thế từ đó dân Việt mới có tục ăn trầu.

Sự tích con sư tử



Thuở xưa, có một hoàng tử mới mới lên ngôi hoàng đế. Ngay lập tức chàng muốn đi học phép thuật để củng cố đất nước. Chàng đi tìm một ông thầy bùa chú rất nổi tiếng về phép thuật để học.

Hoàng hậu rất buồn vì ý định của hoàng đế vì nàng sợ sự chia ly, vả lại trên đường đi có rất nhiều nguy hiểm, khó khăn. Nhưng chàng đã quyết và một ngày kia lên đường cùng với bốn người tuỳ tùng.

Đường đi rất khó khăn, vì phải qua những sa mạc rộng lớn và đi vào những vùng rừng sâu đầy thú dữ… nhưng vì họ quá khao khát phép thuật, quyền hành sau này, cho nên những khó khăn chẳng cản được họ.

Ba tháng cực khổ, đói và khát, hoàng đế và bạn hữu chàng đến chỗ của thầy tu. Vị thầy nầy cảm động vì sự dũng cảm của họ nên chấp nhận cho họ học nghề. Nhưng ông ra một điều kiện: họ phải hứa xử trí một cách đạo đức, không bao giờ giết sinh vật nào cả. Nếu tay họ chỉ một lần vấy máu thôi, thì tất cả phép thuật sẽ biến mất đi. Hoàng đế đồng ý.

Sau khi học những phép thuật, họ vui mừng, lên đường trở về cung điện. Nhưng đi một tháng sau, họ lạc trong một khu rừng dày đặc. Họ không nhận ra những đường xưa nữa, và thấy tất cả vật xung quanh họ đều lạ lùng. Lúc đó, hoàng hôn giăng bủa và đêm khuya bỗng nhiên ôm trùm cả phong cảnh rừng tối om. Những vòm lá ngàn cây che mịt mù cả trời đen thui, không cho thấy những ngôi sao nào để mà nhắm hướng. Xung quanh họ bắt đầu vang lên hàng trăm thứ tiếng của thú rừng.

Hoàng đế và các bạn hữu chàng bắt đầu sợ và bàn với nhau dùng phép thuật để biến thành một con thú vật rất mạnh bạo, to lớn, dữ tợn, có thể tự bảo vệ, và làm khiếp sợ những con thú khác. Vì thế, hoàng đế bắt đầu biến thành đầu một con vật, bờm tóc, như vương miện… Ông đại tướng làm theo ngay và biến thành thân người của con động vật ấy… bốn người tùy tùng kia thì biến thành bốn chân… còn lại ông thầy địa, do dự một lúc, rồi biến thành cái đuôi. Con vật ấy có dáng đi hùng dũng như một vị vua nên các con thú rất sợ và không tấn công nó.

Hoàng đế và mấy bạn bè ở như vậy suốt cả đêm dài. Nhưng lúc gần sáng, thì có một con nai non đi qua gần đó. Con sư tử rất đói vì cả ngày chưa ăn, bỗng chìa cánh tay ra, bắt con nai bằng vuốt nhọn, và hai tay giữ mạnh, cắn cổ nai và xé thịt ăn ngon lành…

Mõm nó còn đỏ máu lúc mặt trời dần dần thức dậy. Nó muốn biến lại thành người để tiếp tục đi về cung điện. Nhưng đột nhiên nó nhớ lại là nó đã dùng phép thuật để giết một con thú vật rồi. Lúc đó nó mới biết là nó sẽ không bao giờ trở thành người lại được nữa, và luôn luôn phải sống làm kiếp con sư tử…

Cậu bé Tích Chu

Ngày xưa, có cậu bé tên là Tích Chu. Bố mẹ Tích Chu mất sớm, Tích Chu ở với bà.

Hàng ngày bà phải làm việc quần quật kiếm tiền nuôi Tích Chu, có thức gì ngon bà cũng dành cho Tích Chu. Ban đêm, khi Tích Chu ngủ thì bà thức quạt. Thấy bà thương Tích Chu, có người bảo:

- Bà ơi! Lòng bà thương Tích Chu cao hơn trời, rộng hơn biển. Lớn lên, Tích Chu sẽ không khi nào quên ơn bà.

Thế nhưng lớn lên, Tích Chu lại chẳng thương bà. Bà thì suốt ngày làm việc vất vả, còn Tích Chu suốt ngày rong chơi. Vì làm việc vất vả, ăn uống lại kham khổ nên bà bị ốm. Bà lên cơn sốt nhưng chẳng ai trông nom. Tích Chu mãi rong chơi với bạn bè, chẳng nghĩ gì đến bà đang ốm. Một buổi trưa, trời nóng nực, cơn sốt lên cao, bà khát nước quá liền gọi:

- Tích Chu ơi, cho bà ngụm nước. Bà khát khô cổ rồi!

Bà gọi một lần, hai lần…rồi ba lần nhưng vẫn không thấy Tích Chu đáp lại. Mãi sau Tích Chu thấy đói mới chạy về nhà kiếm cái ăn. Tích Chu ngạc nhiên hết sức thấy bà biến thành chim và vỗ cánh bay lên trời. Tích Chu hoảng quá kêu lên:

- Bà ơi! Bà đi đâu? Bà ở lại với cháu. Cháu sẽ mang nước cho bà, bà ơi!

- Cúc cu … cu! Cúc … cu cu! Chậm mất rồi cháu ạ, bà khát quá không thể chịu nổi phải hóa thành chim để bay đi kiếm nước. Bà đi đây, bà không về nữa đâu!

Nói rồi chim vỗ cánh bay đi. Tích Chu hoảng quá chạy theo bà, cứ nhằm theo hướng chim bay mà chạy. Cuối cùng Tích Chu gặp chim đang uống nước ở một dòng suối mát. Tích Chu gọi:

- Bà ơi! Bà trở về với cháu đi. Cháu sẽ đi lấy nước cho bà, cháu sẽ giúp đỡ bà, cháu sẽ không làm bà buồn nữa!

- Cúc …cu…cu, muộn quá rồi cháu ơi! Bà không trở lại được nữa đâu!

Nghe chim nói, Tích Chu òa khóc, Tích Chu thương bà và hối hận. Giữa lúc đó, có một bà tiên hiện ra, bà bảo Tích Chu:

- Nếu cháu muốn bà trở lại thành người thì cháu phải đi lấy nước suối Tiên cho bà cháu uống. Đường lên suối Tiên xa lắm, cháu có đi được không?

Nghe bà Tiên nói, Tích Chu mừng rỡ vô cùng, vội vàng hỏi đường đến suối Tiên, rồi chẳng một phút chần chừ, Tích Chu hăng hái đi ngay.

Trải qua nhiều ngày đêm lặn lội trên đường, vượt qua rất nhiều nguy hiểm, cuối cùng Tích Chu đã lấy được nước suối mang về cho bà uống. Được uống nước suối Tiên, bà Tích Chu trở lại thành người và về ở với Tích Chu.

Từ đấy, Tích Chu hết lòng yêu thương chăm sóc bà.

Sự tích Thần núi Tản Viên





Ngày xưa, có một người tiều phu cứ sáng tinh mơ thì vác búa vào rừng đốn củi. Mọi lần, anh chặt một ít cây khô ở rừng, được nặng gánh thì trở về; nhưng lần này anh định chặt thêm một cây gỗ cứng để đem về chống túp lều tranh, nên anh phải đi vào rừng sâu. Ðang đi, anh chợt nghe có tiếng trẻ khóc. Anh đứng lại nghe xem tiếng khóc ấy ở đâu đưa lại thì thấy ở phía trước mặt, dưới một lùm cây to, có một con dê rừng rất lớn đang lấy chân trước bới một đống cỏ khô, tiếng trẻ khóc ở đống cỏ đưa ra.

Người tiều phu rón rén đến nấp sau một gốc cây lớn ở gần xem con dê làm gì. Con vật bới đống cỏ rất nhẹ nhàng, lòi dần ra một đứa trẻ còn đỏ hỏn, bụ bẫm, rồi nó nằm xuống cho đứa trẻ bú. Ðứa trẻ rít lấy rít để bầu sữa căng, một chốc con dê đứng dậy liếm mớ tóc bờm xờm của đứa trẻ rồi chạy đi. Con dê vừa đi khỏi thì một đàn chim bay đến phủ những cỏ khô lên người đứa bé, chỉ trong chớp mắt lại bay vù cả đi.

Người tiều phu lẩm bẩm một mình: “Số mệnh đứa trẻ này thật kỳ lạ.” Anh đến bới đống cỏ khô, thì thấy là một đứa con trai. Anh bế lấy, đem về nuôi. Ðứa bé rất chóng lớn, người tiều phu chăm nom như con đẻ có một số mệnh kỳ lạ, anh đặt tên cho nó là Kỳ.

Lớn lên, Kỳ rất khoẻ mạnh. Ngày ngày Kỳ vác búa theo cha nuôi vào rừng đốn củi. Một hôm, Kỳ chặt một cây lớn đến hai người ôm, chặt từ sáng tinh mơ đến nhá nhem tối mà vẫn chưa xong, nên đành bỏ dở ra về. Sáng hôm sau, đến gốc cây định chặt tiếp thì anh hết sức ngạc nhiên: Cái cây lớn chặt dở hôm qua bây giờ lại liền ruột liền vỏ như chưa có một vết búa nào chạm đến. Thấy thế, Kỳ không ngả lòng, anh lại giáng những nhát búa thật mạnh vào chỗ thân cây đã chặt hôm trước. Tuy anh gắng hết sức, nhưng đến nhá nhem tối anh vẫn chưa hạ xong cây. Sáng sớm hôm sau, Kỳ lại vác búa định tiếp tục công việc còn bỏ dở thì anh thấy vết chặt hôm trước hôm nay lại liền như cũ. Anh không nản chí, lại bắt đầu chặt, nhưng đến lúc nhọ mặt người, anh vẫn chưa chặt xong. Lần này anh không về. Anh leo lên một cây gần để rình xem ban đêm cây tự liền da liền thịt như thế nào.

Ðến nửa đêm trăng sao vằng vặc đầy trời, bỗng có một ông già chống gậy đi từ từ đến cái cây chặt dở. Ông cụ cầm gậy chỉ vào cây, trong chớp mắt vết chặt lại liền như cũ. Kỳ vội tụt từ trên cây xuống, chạy đến hỏi ông cụ:

- Tôi khó nhọc mới sắp hạ được một cây lớn, sao cụ lại phá hỏng công việc của tôi như thế ?

Ông cụ đáp:

- Ta là Thái bạch tinh quân đây, ta không muốn người chặt cây cổ thụ này. Thôi ta cho ngươi cái gậy ngươi đi tìm cây nhỏ mà chặt.

Nói xong ông cụ trao cho Kỳ cái gậy chống ở tay rồi biến mất.

Một hôm đi chơi men sông, Kỳ nhìn thấy con rắn lớn bị đánh dập đầu, đã chết từ lâu, Kỳ cầm gậy chỉ vào đầu rắn, thốt nhiên rắn sống lại vẫy đuôi, ngẩng đầu lên nhìn Kỳ rồi bò xuống sông mất.

Một buổi tối Kỳ đang ngồi trong lều tranh thì một chàng thanh niên tuấn tú khăn áo chỉnh tề, đem châu báu đến tạ ơn Kỳ. Chàng xưng là Tiểu Long hầu con Long Vương ở biển Nam, bị trẻ chăn trâu đánh dập đầu chết ở bờ sông và được Kỳ cứu sống hôm nọ. Kỳ nhất định không nhận lễ vật. Chàng thanh niên có ý băn khoăn, cố mời Kỳ xuống thủy cung chơi. Chàng đưa cho Kỳ một ống linh tê để rẽ nước đi xuống. Ðược Kỳ xuống chơi, Long Vương rất lấy làm mừng rỡ, mở yến tiệc linh đình thết đãi. Ðến khi về, Long Vương đưa tiễn đủ các thứ vật lạ dưới biển, nhưng Kỳ nhất định không nhận. Sau Long Vương lấy ở tráp ra một quyển sách nói với chàng rằng:

- Ngài cứu sống con lão, lão không biết lấy gì đáp lại. Nay biếu vật gì ngài cũng không nhận, lão xin có quyển sách này tặng ngài. Dùng quyển sách này, ngài sẽ ước gì được nấy.

Kỳ nhận sách ước và trở lại trần gian.Từ đó, Chàng cầu được ước thấy, có phép biến hoá trở nên một vị thần cứu nhân độ thế. Thần đi qua cửa bể thần phù, theo dòng sông lớn, đổ ngược mãi lên, tìm nơi đất cao phong cảnh đẹp để cắm chỗ ở. Ðến một nơi thấy có một ngọn núi cao chót vót ba tầng, tròn như cái tán, thần hoá phép mở một con đường qua các động và các suối lên đỉnh núi và hoá phép thành lâu đài để ở. Khi đã định cư rồi thần thường xuống núi đi xem khắp phong cảnh đẹp và dùng phép cứu nhân dân rất nhiều. Ngọn núi thần ở là núi Tản Viên, nên người ta gọi thần là thần Tản Viên hay Sơn Tinh

Nàng công chúa chăn ngỗng



Ngày xưa có một bà hoàng hậu tuổi đã cao. Đức vua chết đã lâu. Bà có một cô con gái rất xinh đẹp. Khi lớn lên, nàng được hứa hôn với một chàng Hoàng tử con vua một nước xa xôi.

Đến ngày tổ chức lễ cưới, nàng công chúa sửa soạn đi đến nước xa lạ. Mẹ nàng gói ghém cho nàng những vật quí giá: đồ trang sức, vàng, bạc, cốc, châu ngọc, tóm lại là tất cả những gì xứng đáng làm của hồi môn cho một công chúa, vì mẹ nàng rất mực thương nàng. Mẹ nàng gửi gắm nàng cho một thị nữ có nhiệm vụ dẫn nàng đi đến chỗ ở người chồng chưa cưới. Mỗi người cưỡi một con ngựa. Ngựa công chúa cưỡi tên là Phalađa, biết nói.

Đến lúc chia tay, bà hoàng vào trong phòng ngủ, lấy một con dao nhỏ trích ngón tay, để chảy ba giọt máu. Bà cho máu thấm xuống một cái khăn trắng nhỏ, đưa cho cô gái và dặn: “Con thân yêu, con hãy giữ gìn cẩn thận cái khăn này, nó sẽ có ích cho con trên đường đi”.

Hai mẹ con buồn bã từ biệt nhau. Công chúa áp cái khăn lên ngực, nhảy lên yên ngựa để đi đến nơi ở của người yêu. Sau khi đã đi một tiếng, cô cảm thấy khát khô họng, bèn bảo thị nữ: “Em hãy xuống ngựa, lấy cốc của ta múc nước suối kia và mang lại đây cho ta, ta khát nước lắm”. Thị nữ trả lời: " Nếu cô khát, thì hãy tự nhảy xuống, rồi vươn người ra trên mặt nước mà uống. Tôi không phải là đầy tớ của cô”.

Công chúa khát lắm, bèn xuống ngựa, cúi xuống dòng nước suối để uống nước. Nàng không dám uống nước bằng cốc vàng. “Trời ơi!” nàng kêu to. Ba giọt máu bảo cô: “Nếu mẹ cô biết sự tình thế này, thì hẳn tim bà sẽ tan nát trong ngực”. Nhưng công chúa là người can đảm. Nàng không nói gì và lại nhảy lên ngựa. Ngựa phi được vài dặm. Trời thì nóng nực, chẳng mấy chốc nàng lại khát nước. Tới một con sông, nàng bảo thị nữ: “Em hãy xuống ngựa và cho ta uống nước bằng cái cốc vàng”. Cô đã quên đứt những lời độc ác của thị nữ. Nhưng thị nữ lại trả lời ngạo mạn hơn: “Nếu cô khát thì tự đi uống nước một mình, tôi không phải là đầy tớ của cô”.

Công chúa khát quá, nhảy xuống ngựa, cúi xuống dòng nước chảy xiết, khóc và kêu lên: “Trời ơi!” Ba giọt máu liền đáp lại: “Nếu mẹ cô biết sự tình thế này, thì hẳn tim bà tan nát trong ngực”. Trong khi cô cúi xuống để uống thì cái khăn có thấm ba giọt máu, tuột khỏi ngực cô và trôi theo dòng nước mà cô không hay biết, vì lúc đó cô rất sợ hãi. Thị nữ thì lại trông thấy hết và nó rất vui mừng từ giờ trở đi công chúa sẽ bị nó trả thù. Từ lúc đánh mất ba giọt máu, công chúa trở nên yếu đuối, không đủ sức tự vệ nữa. Khi nàng định trèo lên con ngựa Phalađa thì thị nữ bảo: “Tôi sẽ cưỡi con Phalađa, còn cô, cô hãy cưỡi con ngựa tồi của tôi”. Công chúa đành làm như vậy.

Tiếp đó thị nữ ra lệnh, lời lẽ gay gắt, bắt nàng phải cởi quần áo hoàng cung ra và mặc quần áo của nó vào. Cô lại phải thề với trời đất là khi đến cung điện sẽ không nói lộ ra. Nếu cô không chịu thề thì nó sẽ giết cô tại chỗ. Nhưng con Phalađa đã quan sát tất cả và ghi nhớ tất cả.

Thị nữ cưỡi con Phalađa, còn công chúa thì cưỡi con ngựa tồi. Nó lại tiếp tục đi, cuối cùng đến lâu đài nhà vua. Ở đấy, mọi người rất vui mừng khi họ tới, và Hoàng tử vội chạy tới tận nơi đón họ, đỡ thị nữ xuống ngựa, vì tưởng rằng đó là vợ chưa cưới của mình. Thị nữ đi lên bậc thềm lâu đài, còn nàng công chúa thì phải đứng lại ngoài sân. Vua cha nhìn ra, qua cửa sổ thấy nàng duyên dáng và tuyệt đẹp. Người vào trong cung hỏi cô gái được coi là vợ chưa cưới của Hoàng tử xem cô gái đứng ngoài sân là ai. “Tâu vua cha, con đã gặp cô gái đó trên đường đi và con đưa cô ta đi cùng để đỡ lẻ loi một mình. Xin vua cha cho cô ta làm việc để cô ta khỏi phải vô công rồi nghề”.

Nhưng vua cha không có việc gì giao cho cô làm cả. Người bảo: “Ở ngoài kia, ta có một anh chàng chăn ngỗng, hãy để cô ta giúp việc vậy”. Chàng trai tên là Cuốc. Vợ chưa cưới của Hoàng tử phải giúp anh chăn ngỗng.

Ít lâu sau, vợ chưa cưới giả tâu với hoàng tử: “Chàng thân yêu ơi, em muốn một điều, chàng hãy làm vui lòng em”. Hoàng tử nói: “Được thôi!”

“Chàng hãy cho gọi người thợ lột da đến đập chết con ngựa em đang cưỡi đến đây, vì trong khi đi đường nó làm em bực tức”.

Thật ra thì nó sợ con ngựa kể lại cách nó đã đối xử với công chúa. Đến lúc con ngựa trung thành Phalađa phải chết thì công chúa được tin. Nàng hứa với người thợ lột da là sẽ bí mật biếu anh một đồng tiền bằng bạc nếu anh giúp nàng một việc nhỏ. Trong đô thị có một cái cổng to rất tối, hàng ngày, sớm tối nàng phải dẫn đàn ngỗng đi qua. Nàng xin người thợ lột da hãy đóng đanh treo đầu con Phalađa vào cái cổng ấy để nàng có thể luôn luôn trông thấy nó. Người thợ lột da hứa sẽ làm và bác đóng chặt đanh treo đầu ngựa vào dưới cái cổng tối om.

Sáng sớm, khi cùng Cuốc đi qua cổng, cô bảo cái đầu: “Ôi, Phalađa, mày bị treo ở đây ư!”

Cái đầu trả lời: “Ôi! Nàng công chúa của tôi, nàng qua đây ư! Nếu mẹ nàng biết nông nỗi này tim mẹ sẽ vỡ tan tành”.

Lặng lẽ, cô đi khỏi đô thị, dẫn đàn ngỗng ra cánh đồng. Đến đồng cỏ, cô ngồi xuống và rũ tóc ra. Tóc cô óng ánh như vàng nguyên chất và Cuốc rất thích nhìn mớ tóc ấy lóe sáng. Anh muốn nhổ vài sợi tóc. Công chúa bèn nói: “Ta khóc đây, ta khóc đây! Hỡi làn gió nhẹ. Hãy cuốn cái mũ của Cuốc đi! Anh ta sẽ chạy theo cái mũ cho đến khi nào tóc ta chải và tết xong”.

Tức thì gió thổi mạnh cuốn đi cái mũ của Cuốc. Anh ta chạy theo ngay. Khi anh trở về thì công chúa đã chải đầu xong và anh không nhổ được sợi tóc nào. Anh rất bực và không nói năng gì với cô nữa. Họ lại tiếp tục chăn ngỗng đến chiều, rồi cùng về nhà.

Sáng sớm hôm sau, khi lùa ngỗng qua cổng, cô gái nói: “Ôi, Phalađa, mày bị treo ở đây ư!”

Cái đầu trả lời: “Ôi! Nàng công chúa của tôi, nàng qua đây ư! Nếu mẹ nàng biết nông nỗi này, tim mẹ sẽ vỡ tan tành”.

Đi ra khỏi đô thị, cô lại ngồi trên đồng cỏ và lại rũ tóc ra chải. Cuốc muốn nắm lấy mớ tóc. Cô vội vàng nói: “Ta khóc đây, ta khóc đây! Hỡi làn gió nhẹ, hãy cuốn cái mũ của Cuốc đi! Anh ta sẽ chạy theo cái mũ cho đến khi nào tóc ta chải và tết xong”.

Gió nổi lên, cuốn cái mũ đi. Cuốc phải chạy theo. Khi anh trở về thì công chúa đã chải đầu xong từ lâu và anh không nắm được mớ tóc ấy. Và rồi hai người lại cùng chăn ngỗng đến chiều.

Nhưng chiều hôm ấy, về tới nhà, Cuốc đến gặp vua cha và tâu: “Kính thưa hoàng thượng, con không thể chăn ngỗng cùng cô gái này nữa” – “Tại sao vậy?”, vua hỏi. “Suốt ngày, cô ta làm con bực mình!” – Vua cha bảo anh kể lại sự việc đã xảy ra.

Cuốc nói: “Buổi sáng, chúng con dẫn đàn ngỗng qua cái cổng tối om, ở đấy có một cái đầu ngựa treo trên tường. Cô ta nói với nó: “Ôi, Phalađa, mày bị treo ở đây ư!” Cái đầu trả lời: “Ôi! Nàng công chúa của tôi, nàng qua đây ư! Nếu mẹ nàng biết nông nỗi này tim mẹ sẽ vỡ tan tành.”

Và Cuốc kể các sự việc đã xảy ra ở cánh đồng chăn ngỗng và tại sao anh ta lại phải chạy theo cái mũ. Vua cha dặn anh ta ngày hôm sau cứ đi chăn ngỗng như thường lệ. Sáng sớm ngài thân chinh đến dưới cái cổng tối om và nghe được những câu cô gái nói với cái đầu Phalađa. Ông theo ra cánh đồng và nấp vào một bụi cây. Chính mắt ngài trông thấy anh thanh niên và cô gái lùa ngỗng thế nào và sau một lúc, cô gái ngồi xuống gỡ mớ tóc vàng lóe sáng. Rồi cô lại nói: “Ta khóc đây, ta khóc đây! Hỡi làn gió nhẹ, hãy cuốn cái mũ của Cuốc đi! Anh ta sẽ chạy theo cái mũ cho đến khi nào tóc ta chải và tết xong”.

Một cơn gió thổi mạnh, cuốn cái mũ đội đầu của Cuốc đi. Anh phải chạy theo rất xa. Cô gái chăn ngỗng chải tóc và cuốn thành từng búp. Vua cha nhìn thấy tất cả. Không ai nhận ra ngài khi ngài rời khỏi đó. Chiều đến, cô gái về nhà, ngài cho gọi cô đến và hỏi tại sao cô lại làm như thế. “Tâu bệ hạ, con không thể nói được”, – cô trả lời. – “Con không thể kể nỗi khổ của con với bất cứ ai trên thế gian này, con đã thề như vậy để khỏi bị người ta giết”. Vua cha cô ép cô nói, nhưng ngài không biết được gì thêm bèn nói: “Nếu con không muốn nói với ta, thì con hãy kể nỗi khổ của con với cái bếp lò này”. Rồi ông bỏ đi. Cô đến ngồi gần cái bếp lò, than khóc, thổ lộ tâm can: “Ta ngồi đây, bị cả thế gian ruồng bỏ, dù ta là con vua. Một tên thị nữ độc ác đã áp chế ta, bắt ta đổi cho nó quần áo hoàng cung. Nó thay thế ta để làm vợ chưa cưới của người yêu ta, và ta bắt buộc phải làm công việc bình thường của người chăn ngỗng. Nếu mẹ ta biết nông nỗi này, tim bà sẽ tan nát”.

Vua cha đứng ở phía tường bên kia gần ống thông hơi, ngài đã nghe thấy hết. Ngài trở về và gọi cô hãy rời cái lò đến gặp ngài. Người ta mang đến cho cô quần áo hoàng cung, cô mặc vào đẹp như là có phép lạ. Vua cha cho gọi con trai đến và bảo cho con biết về cô vợ chưa cưới giả mạo. Cô người yêu thật đứng trước chàng, đấy là cô gái chăn ngỗng. Hoàng tử thấy cô rất đẹp và phúc hậu nên lòng tràn ngập niềm vui. Một bữa tiệc được sửa soạn để mời tất cả các bạn bè thân thuộc. Hoàng tử và công chúa ngồi ở đầu bàn, trước mặt họ là con thị nữ. Nó bị choáng ngợp và không nhận ra cô chủ trang sức lộng lẫy. Khi họ đang ăn uống vui vẻ, vua cha ra một câu đố cho thị nữ. Nó phải trả lời là một người đàn bà lừa dối chủ thì sẽ bị xử tội như thế nào. Ngài kể các sự việc đã xảy ra và hỏi nó: “Như thế sẽ xứng đáng với hình phạt gì”. – “Nó xứng đáng phải đuổi đi khỏi đất nước” – “Kẻ ấy chính là mày, mày sẽ bị xử tội như mày nói”.

Sau khi hình phạt được thi hành, Hoàng tử cưới nàng công chúa làm vợ và họ trị vì đất nước trong hòa bình và hạnh phúc.

Sự tích con sam




Ngày xưa có hai vợ chồng một người đánh cá nghèo. Một hôm người chồng ra khơi với bạn nghề. Không may có một trận bão rất lớn nổi lên giữa lúc họ đang thả lưới. Không một người nào thoát khỏi tai nạn. Tin dữ về đến làng, tất cả mọi gia đình đánh cá đều đau khổ. Tiếng khóc lan đi các nhà. Riêng người đàn bà lòng đau như cắt. Như điên như cuồng, bà bỏ nhà ra đi, hy vọng tìm thấy chồng. Bà cứ theo bờ biển đi, đi mãi. Trải qua hai ngày đến một hòn núi lớn. Bà trèo lên rồi vì mệt quá ngủ thiếp dưới một gốc cây. Đang ngủ bỗng có một tiếng nổ dữ dội. Bà choàng dậy thấy một ông lão đầu tóc bạc phơ đứng trước mặt mình, hỏi:

- Người là ai mà dám đến nằm trước nhà ta?

Người đàn bà mếu máo đáp:

-Tôi đi tìm chồng. Cụ làm ơn chỉ giúp kẻo tôi nóng lòng nóng ruột quá!

Cụ già nói:

- Ta là thần Cây. Thấy nhà ngươi chung tình ta rất thương. Vậy ta báo cho biết là chồng ngươi còn sống, hiện ở ngoài hải đảo.

Nói rồi, ông cụ trao cho người đàn bà một viên ngọc và bảo:

- Ngươi hãy ngậm viên ngọc này vào miệng thì sẽ bay qua được biển để gặp chồng. Nhưng phải nhớ là nhắm mắt ngậm miệng kẻo rơi ngọc mà nguy đó.

Ông cụ nói xong biến mất. Bà ta lấy ngọc ngậm vào miệng và nhắm mắt lại. Thốt nhiên trời bỗng nổi gió ù ù. Bà thấy người như nhẹ bỗng, hai bên tai nghe tiếng vo vo. Được một lúc sau thấy chân chấm đất, bà mở mắt ra thì thấy mình đang đứng trên một bãi cát lạ mà gió bấy giờ đã lặng. Trông thấy chồng ngồi co ro trên bãi, bà mừng quá. Hai vợ chồng hàn huyên một hồi lâu rồi mới tính chuyện trở về làng cũ.

Người chồng ôm ngang lưng vợ để vợ đưa qua biển cả. Lòng người vợ sung sướng không thể nói hết. Vì thế, bà ta đã quên mất lời của thần Cây dặn. Miệng mắc ngậm ngọc nhưng bà vẫn cố hỏi chuyện chồng. Đột nhiên viên ngọc văng ra giữa không trung. Bà chỉ kịp kêu lên một tiếng rồi cả hai vợ chồng đều sa xuống biển. Rồi đó họ hóa thành những con sam. Ngày nay, những con sam thường đi cặp đôi ở dưới nước, lúc nào con sam đực cũng ôm lấy con sam cái như khi chồng ôm vợ để bay qua biển. Có câu tục ngữ “Thương như sam”, là do truyện này mà ra.

Sự tích con muỗi



Ngày xưa, có một người nông dân hiền lành tên là Ngọc Tâm, có một người vợ xinh đẹp tên là Nhan Diệp. Khác hẳn với tính tình đơn giản của chồng, quanh năm chăm chú làm ăn, người vợ lười biếng xa hoa, chỉ lo thỏa thê sung sướng.

Trong lúc hai vợ chồng tưởng chung sống với nhau đến răng long đầu bạc, thì Nhan Diệp bỗng lăn ra chết. Người chồng đau đớn quá, không muốn rời xa xác vợ, bèn bán hết tài sản, mua một chiếc thuyền chở quan tài vợ thả bồng bềnh trên mặt nước.

Một buổi sớm mai thuyền đi đến dưới chân một ngọn núi cỏ cây ngào ngạt, Ngọc Tâm lên bờ thấy đủ các kỳ hoa dị thảo, cây cối nặng trĩu trái thì lấy làm lạ bèn phăng lần lên cao. Lưng chừng núi, Ngọc Tâm gặp một ông lão tướng mạo phương phi, râu tóc bạc phơ, tay chống gậy trúc đang lần bước. Thấy người có vẻ tiên phong đạo cốt, đoán chừng là thần tiên ở núi Thiên Thai xuất hiện, Ngọc Tâm bèn sụp lạy, rồi thiết tha xin cứu tử hoàn sinh cho người vợ thương yêu.

Vị thần thương hại nhìn Ngọc Tâm hồi lâu rồi nói:

- Ngươi còn nặng lòng vương vấn trần ai, chưa thoát được vòng tục lụy… Ta có thể giúp cho ngươi đạt ước vọng song về sau ngươi đừng có lấy làm ân hận!

Ngọc Tâm theo lời vị thần, dở nắp quan tài vợ ra, chích đầu ngón tay mình nhỏ ba giọt máu vào thi thể Nhan Diệp, thì người đàn bà từ từ mở mắt ra, rồi ngồi lên như sau một giấc ngủ dài.

Trước khi từ giã, vị thần bảo người đàn bà vừa sống lại:

- Đừng quên bổn phận của người vợ… Hãy luôn luôn nghĩ đến lòng thương yêu chung thủy của chồng. Chúc cho hai vợ chồng được sung sướng.

Trên đường về quê, người chồng hối hả giục thuyền đi mau. Một tối thuyền ghé bến, Ngọc Tâm lên bờ mua sắm thức ăn. Trong lúc đó, có một chiếc thuyền buôn lớn đậu sát bên cạnh, chủ nhân là tay lái buôn giàu có chú ý đến nhan sắc lộng lẫy của Nhan Diệp. Hắn gợi chuyện, mời Nhan Diệp qua thuyền mình dùng trà rồi ra lệnh cho bạn thuyền dong hết buồm chạy.

Ngọc Tâm quay về thấy mất vợ, bỏ cả ăn ngủ, ngày đêm đi tìm kiếm, một tháng sau mới gặp. Nhưng người đàn bà đã quen với lối sống xa hoa bên cạnh tay lái buôn giàu có, quên cả tình cũ nghĩa xưa. Thấy rõ bộ mặt thật của vợ, Ngọc Tâm như tỉnh cơn mê, bảo Nhan Diệp:

- Mình được tự do bỏ tôi song tôi không muốn mình còn lưu giữ kỷ niệm gì của tôi nữa, vậy hãy trả lại ba giọt máu của tôi đã nhỏ ra để cứu mình sống lại.

Nhan Diệp thấy được ra đi dứt khoát dễ dàng như thế, vội vàng lấy dao chích đầu ngón tay, nhưng máu vừa bắt đầu nhỏ giọt thì nàng ngã lăn ra chết.

Người đàn bà nông nổi, phụ bạc chết vẫn còn luyến tiếc cõi đời nên hóa kiếp thành một vật nhỏ, ngày đêm đuổi theo Ngọc Tâm, tìm cách ăn cắp ba giọt máu để trở lại làm người. Con vật này luôn luôn kêu than với chồng cũ, như van lơn, như oán hận, như tiếc thương, ngày đêm o o không ngừng. Về sau giống này sinh sôi nẩy nở rất nhiều, người ta đặt tên nó là con muỗi. Vì ghét kẻ phụ bạc, nên mỗi lần muỗi lại gần, người ta không tiếc tay đập cho nó chết.

Thứ Sáu, 28 tháng 6, 2013

Momo Tarou - Cậu bé trong quả đào

Ngày xửa ngày xưa, tại một vùng quê hẻo lánh ở Nhật Bản có cặp vợ chồng già sinh sống. Họ không có con cái nên cuộc sống rất buồn tẻ. Hằng ngày, ông lão lên rừng đốn củi còn bà thì giặt giũ bên bờ sông. Một ngày nọ, khi ở bên bờ suối, bà lão thấy một trái đào rất lớn nổi lềnh bềnh. Thấy lạ, bà bèn vớt lên mang về nhà, nhưng thật khó khăn vì trái đào ấy vừa to vừa nặng. cổ tích nhật bản

Bà lão đợi chồng để cùng thưởng thức trái đào. Khi ông về, bà bèn lấy dao ra bổ nhưng chua kịp làm gì thì đột nhiên trái đào nứt đôi và kèm theo tiếng khóc rất lớn của một đứa bé bụ bẫm. Thoạt đầu, hai vợ chồng giật thót. Nhưng sau đó họ lại vui mừng khôn xiết và bàn nhau nuôi lớn đứa bé này. Họ gọi cậu là Momo Tarou (Đào Thái Lang) và nuôi dạy với tất cả tình thương yêu của mình. truyện cổ tích nhật bản

Momo Tarou lớn lên thông minh và khỏe mạnh. Chẳng mấy chốc mà trở thành cậu bé khỏe nhất làng. Một ngày, Momo Tarou nghe nói về những con quỉ ở Onigashima – nỗi khiếp sợ của mọi người trong vùng. Cậu bèn xin cha mẹ cho đi đánh quỉ. Ban đầu cha mẹ cậu rất lo lắng như Momo Tarou cứ một mực khẳng định khả năng của mình, thế là vợ chồng già đành chấp thuận. Họ chuẩn bị lương thực cho cuộc hành trình và tiễn con đi.



Ở đầu làng, cậu gặp một chú chó, nó hỏi :” Momo Tarou, cậu đi đâu đấy? Cậu mang theo gì trong túi thế?” “Tôi đến Onigashima” – Momo Tarou trả lời – ” Và tôi mang theo rất nhiều thức ăn ngon mọi miền Nhật Bản, nếu cậu giúp tôi đến được đó, tôi sẽ chia thức ăn cho cậu”. Chó nghĩ đến cái bụng đói meo của mình và đồng ý. Thế là Momo Tarou có một người bạn đồng hành tin cậy. Một lúc sau, họ đi ngang qua tổ của Két. Để được chia phần thức ăn, Két đồng ý gia nhập nhóm. Sau đó, họ lại gặp Khỉ và thuyết phục Khỉ cùng tham gia với điều kiện là một phần thức ăn nữa. co tich the gioi

 Khi nhóm của Momo Tarou đến được Onigashima, họ bị một cái cổng lớn cản đường. Két bèn bay lên cao, vượt vào trong và mở chốt cửa. Cả nhóm vào được bên trong thì gặp một bầy quỉ đang vui vẻ ăn mừng và có vẻ như đã ngà ngà say. “Bọn ta sẽ trừng phạt các ngươi vì đã quấy nhiễu cuộc sống của con người” – Momo Tarou hét lên và cùng ba người bạn đồng hành lao vào. Két thì mổ, Khỉ thì vồ còn Chó thì cắn chân tay lũ quỉ. Cám ơn vì đã ăn những món tuyệt vời nhất của Nhật Bản, nhóm Momo Tarou như có sức mạnh của nghìn người và cuối cùng đã đánh đuổi thành công lũ quỉ. cổ tích thế giới

 Hoàn toàn bị khuất phục, con quỉ đầu đàn đã phải quì gối trước Momo Tarou. Nước mắt ngắn dài, con quỉ nói :”Tôi hứa sẽ không bao giờ làm hại con người nữa, và xin hoàn trả lại những châu báu đã cướp ở làng của ngài. Nhưng, xin hãy tha mạng cho chúng tôi, cầu xin ngài! ” Và rồi, Momo Tarou chất số của cải lên thuyền và cùng nhóm bạn hăng hái trở về nhà với niềm hân hoan chiến thắng. truyện cổ tích

Kaguya Hime - Nàng công chúa trong ống tre


Thuở xa xưa ở Nhật Bản, có một lão tiều phu chuyên nghề đốn củi. Một ngày nọ, khi đang ở trong rừng, ông phát hiện một đốt tre phát ra những tia sáng vàng rực rỡ. Hiếu kì, ông đến gần nhìn cho rõ. truyện cổ tích

Trong đốt tre phát sáng ấy là một bé gái nhỏ rất đáng yêu. Vợ chồng ông vốn không con cái nên ông bèn bế đứa trẻ về nhà và nuôi nấng yêu thương. Họ đặt tên cho bé là Kaguya Hime. Vào thời gian đó, cứ mỗi lần ông lên rừng thì đốn củi đến đâu, vàng ào ào tuôn ra đến đấy. Chẳng mấy chốc mà vợ chồng ông trở nên giàu có.

Thật kì diệu là chỉ trong vòng 3 tháng, Kaguya Hime lớn rất nhanh và trở thành một thiếu nữ vô cùng xinh đẹp. Sắc đẹp của nàng vang khắp đất nước. Rất nhiều những chàng trai trẻ lặn lội đường xa đến ngỏ lời cầu hôn nhưng nàng đều từ chối. Chỉ còn lại 5 người quyết không nản lòng. Kaguya Hime bèn đưa ra những điều kiện và nàng chỉ bằng lòng kết hôn với người nào có thể thực hiện được điều nàng muốn. Nàng yêu cầu họ tìm cho nàng những thứ chẳng tồn tại trên đời này, và vì vậy mà 5 kẻ cầu hôn nọ đều thất bại quay về. cổ tích nhật bản

Cùng lúc ấy, nhà vua cũng nghe về sắc đẹp của Kaguya Hime nên quyết định phải cưới cho được nàng về làm hoàng hậu. Nhưng cả ngài cũng bị nàng từ chối. Nhà vua bèn sai quân lính bắt nàng về cung thì bất thình lình, nàng biến mất. Nhà vua chợt nhận ra ở Kaguya Hime có một điều gì đó đặc biệt khác thường và ngài hiểu đó là lí do mà ngài thất bại. cổ tích thế giới

 Ba năm trôi qua, Kaguya Hime ngày càng xinh đẹp hơn. Mùa xuân năm ấy, nàng bắt đầu u sầu vào mỗi đêm trăng tròn. Nàng cứ thẩn thờ nhìn trăng mà nước mắt lăn dài. Lão tiều phu lo lắng hỏi thì nàng trả lời rằng :”Thật ra, con đến từ cung trăng, do mắc lỗi mà bị đày xuống trần. Nhưng bây giờ là lúc con phải trở về. Con sẽ rất nhớ mọi người ở đây, đó là lí do vì sao con buồn” cổ tích

Ông lão vô cùng buồn phiền, ông không muốn xa cô con gái yêu nên bèn tìm đến nhà vua hỏi ý kiến. Vào một đêm trăng tròn, nhà vua sai lính đến bắt Kaguya Hime. Bất thình lình, bầu trời bỗng nhiên rực sáng. Sứ giả đến từ cung trăng cỡi mây đáp xuống, trên người khoác những bộ xiêm y rực rỡ đủ màu. Lúc đó, binh lính nhà vua sững sờ, đánh mất cả nhuệ khí. Sứ giả dìu Kaguya Hime lên kiệu lớn và khoác cho nàng chiếc áo lông. Và cứ thế nàng bay về cung trăng để lại nỗi nhớ thương cho bao người

Bà lão hài nhỉ

Đây là một trong những truyện cổ dân gian được mọi người kể đi kể lại ở miền Tây của tỉnh Totomi mà bây giờ là tỉnh Shizuoka.

Ngày xửa ngày xưa, có một người đàn ông sống hiền lành bên người vợ trong một làm hẻo lánh trên núi cao. Hai vợ chồng đã rất già, lại không có con cái. Mỗi ngày trôi qua, họ lại càng cảm thấy cuộc sống khó khăn hơn. Họ yếu đến nổi không thể làm nổi tất cả các công việc hàng ngày. Nhưng họ rất thương yêu nhau và cả hai đã nguyện với nhau rằng, khi thời điểm cái chết đến gõ cửa nhà họ, họ muốn được chết cùng nhau. Họ biết, thời điểm đó chắc cũng chẳng còn lâu lắm nữa. co tich nhat ban

Nhưng rồi có 1 việc xảy ra làm thay đổi tất cả. Nó bắt đầu vào một buổi sáng, khi ông lão vào rừng đốn củi và nhặt nấm. Mặc dù đã rất già, ông lão vẫn phải đi vào núi để nhặt củi bán làm kế sinh nhai. Sáng hôm ấy, mới sớm tinh mơ ông đã đi làm, còn người vợ ở nhà làm công việc nội trợ.

Khi đã lấy xong củi, ông nghĩ :

- Bà lão nhà mình rất thích nấm, bây giờ còn sớm, ta phải nhặt cho bà í một ít.

Nghĩ vậy, với bó củi cột chặt sau lưng, ông lão cặm cụi tìm nhặt từng chiếc nấm. Không để í nên ông lão ngày càng đi sâu vào rừng hơn.

- Ta chắc là đủ rồi. – Ông lão tự nói khi nhìn cái túi trong tay đã gần đầy. – Bây giờ thì… ôi, ta đã đi lối nào đến đây nhỉ? co tich the gioi

Ông đã lạc trong rừng. Trời hôm đó lại rất nóng và ông cảm thấy khát kinh khủng. May mắn làm sao, khi đang loay hoay tìm con đường mòn nhỏ về nhà thì ông nghe thấy tiếng nước chảy róc rách. Ông đi theo tiếng nước chảy và tìm đến bên 1 con suối nhỏ khuất giữa những bụi cây rậm rạp.

- Ơn trời. – Ông lão reo lên, quỳ xuống, vục tay vào trong làn nước mát rượi. – Ôi, nó trong và mát làm sao!

Ông vục nước đầy hai lòng bàn tay và uống ngon lành. Bỗng nhiên ông cảm thấy mình khỏe hơn hẳn. Ông uống thêm 1 ngụm nữa và 1 lần nữa ý thức được sức mạnh trẻ trung của mình. Ông không thấy được sự thay đổi hình dạng của mình, nhưng nếu có thấy , chắc chắn ông càng ngạc nhiên hơn. Mặt ông bây giờ là gương mặt của một chàng trai trẻ. Những nếp nhăn trên mặt đã biến mất, mái tóc bạc đã trở lại đen bóng. cổ tích

Sau ngụm nước cuối cùng, ông lão – chàng trai trẻ đứng dậy tìm đường trở về nhà. Lúc này ông tìm đường rất nhanh và đi băng băng trên đường về.

Buổi tối hôm đó, người vợ chờ mãi mà không thấy ông về. Mọi khi vào giờ này ông đã về nhà mệt mỏi với bó củi nặng trên lưng rồi. Bà lo lắng nghĩ, không biết có điều gì đã xảy ra. Nghĩ vậy nhưng bà không làm gì được. Họ sống ở 1 nơi rất hẻo lánh, xa xóm làng. Bà ngồi đoán già đoán non xem đã xảy ra chuyện gì. Bỗng bà nghe có tiếng gì sột soạt ở bên ngoài. Bà vội chạy ra xem thì nhìn thấy 1 cái bóng mờ ảo đang tiến về phía mình. Khi thấy rõ hình dáng của 1 người đàn ông mang bó củi trên lưng bà mới yên tâm. Bà bắt đầu đi về phía cái bóng mờ ảo đó. Khi đến gần, đôi mắt bà nhìn âu yếm vào gương mặt cái bóng. truyen

- Ông đấy sao? Vì sao ông về nhà muộn như vậy? Nào nhanh lên, ở đây lạnh lắm, vào đi, vào đi. – Bà nói như vậy và vội vàng kéo ông chồng khó bảo của mình vào nhà.

Khi họ đã ở trong nhà rồi, người vợ kêu lên sửng sốt:

- Cái gì thế này? Đây có phải là ông không? Tại sao tóc ông lại đen thế? Nó làm cho ông quá trẻ, thật không thể tin được, ôi tôi không tin ông là chồng của tôi. – bà khóc to và càng lo lắng hơn.

- Nào, hãy nghe đây, bà vợ yêu quí của tôi, bà phải tin tôi. – Người đàn ông nói.

Sau đó ông thuật lại cho bà nghe chuyện kì diệu hôm nay. Sau khi chăm chú lắng nghe với vẻ tò mò, bà lão nói một cách phấn khởi:

- Thế à, nếu điều đó có thật thì ngày mai tôi phải đi đến đó để uống nước vì tôi cũng muốn trở nên trẻ trung như ông. truyện cổ tích nhật bản

Thế là sáng hôm sau, bà lão vào núi thật. Bà tìm đến dòng suối mùa xuân có thể làm người ta trẻ lại. Người chồng hôm đó tất nhiên phải ở nhà làm việc thay cho bà.

Đêm đã xuống nhưng không thấy bà về nhà. Người chồng bắt đầu lo lắng. Ông đứng ở cửa mặc cho đêm xuống lạnh buốt, chờ bà trở về. Nhưng đêm đó bà không về, mặt trời đã mọc vẫn không thấy bà đâu.

Cuối cùng ông quyết định đi vào núi tìm vợ. Ông nhớ lại con đường mòn dẫn đến dòng suối tuyệt vời, nơi ông đã uống nước. Vì vậy ông tìm đến đó không khó khăn gì. Ở đó ông đứng ngóng bà nhưng cũng không thấy bóng dáng bà đâu. Ông tìm xung quanh dòng suối thì bỗng thấy có tiếng thì thầm yếu ớt ở gần đó. Ông thận trọng đi theo tiếng động và tìm đến nơi. Ông nhìn thấy gì thế này? Một đứa trẻ quấn mình trong một cái kimono lớn đang giãy giụa và khóc ngất. Ông nhìn và chợt hiểu hết: truyen co tich

- Đây là bà sao, bà thân yêu?? – Ông hỏi buồn rầu và nhẹ nhàng, bối rối nhận ra cái áo kimono người vợ già nua của mình đã mặc hôm qua khi đi vào núi. Người vợ trung thành và đáng thương của ông đã trẻ lại, quá trẻ.

Đứa trẻ yếu ớt, thì thào dưới chân ông:

- Ông ơi, nước suối ngọt quá, mà tôi thì khát. Tôi đã uống quá nhiều. Và bây giờ ông xem, tôi đã trở thành thế này đây.

Người đàn ông buồn rầu quấn chặt đứa trẻ vào cái áo kimono rồi ôm nó về nhà. Từ nay trở đi, ông nghĩ :” ta phải chăm sóc bà vợ ‘hài nhi’ của ta thế nào đây???

Thứ Tư, 26 tháng 6, 2013

Aladdin và cây đèn thần - Phần 12

Khi người ta thấy người phụ nữ thánh thiện như họ nghĩ, lão phù thuỷ đội lất đã được nhiều người vây quanh. Những người này xin cầu nguyện, những người khác hôn tay. Một số dè dặt hơn chỉ hôn vạt áo, một số hoặc đau đầu hoặc muốn được chiếu cố, cứ quỳ xuống trước mặt để đọc kinh, hắn bắt chước người phụ nữ thánh thiện khéo đến nỗi mọi người nhầm hắn là bà ấy. Sau khi phải dừng lại nhiều lần để thoả mãn những người dân muốn được bà Fatime đặt bàn tay lên đầu, hắn đến chỗ quảng trường trước lâu đài Aladdin. Ở đây nhiều người dồn lại quanh hắn. Những người mạnh khoẻ hơn chen vào đám đông lấy chỗ nên cãi cọ nhau tiếng ồn lên tận phòng khách hai mươi bốn cửa sổ đang có công chúa Badroulboudour ở đấy.
Công chúa hỏi vì sao có tiếng ồn ào như vậy và bảo người xuống xem rồi lên báo cho nàng biết. Không ra khỏi phòng khách, một trong số thị nữ vén mành cửa nhìn xuống và trở lại nói với nàng: tiếng ồn ào do một đám người chen lấn nhau bao quanh người đàn bà thánh thiện để bà đặt tay vào đầu chữa bệnh. nghìn lẻ một đêm

Công chúa từ lâu đã nghe nói về người đàn bà làm nhiều việc thiện nhưng chưa thấy mặt, nàng tò mò muốn gặp và nói chuyện với bà. Một thái giám thấy công chúa tỏ ý thích liền tâu với nàng nếu cần thì cho lệnh gọi bà ấy lên. Công chúa lệnh cho ông ta cử ngay bốn thái giám dẫn người họ nghĩ là người đàn bà thánh thiện lên lâu đài.
Lúc nhũng người thái giám ra khỏi lâu đài, đám đông thấy họ đi lại phía lão phù thuỷ cải trang, liền giải tán dần. Được tự do và thấy các thái giám đến, tên phù thủy vui mừng vì trò lừa đảo của mình đã có hiệu quả. Một thái giám nói với hắn: Người đàn bà thánh thiện, công chúa muốn gặp bà, hãy theo chúng tôi”.
- Công chúa làm cho tôi rất vinh dự- Fatime giả trả lời – Tôi xin sẵn sàng vâng lệnh Người.
Hắn liền theo thái giám đi về phía lâu đài.
Lão phù thuỷ che giấu con tim ma quỷ dưới lốt thánh thiện được đưa lên phòng khách hai mươi bốn cửa sổ. Thấy công chúa, hắn bắt đầu ngay bằng một tràng cầu nguyện cho sức khoẻ và sự thịnh vượng, nguyện vọng của nàng, và chúc cho mọi nguyện ước của nàng đều trở thành sự thực. Hắn thả hết mọi huênh hoang lừa bịp và đạo đức giả gieo vào tâm trí công chúa dưới vỏ bọc một người kính tin. Hắn đã đạt được kết quả vì công chúa bản chất phúc hậu, nghĩ rằng mọi người đều tốtt như nàng, đặc biệt những người ẩn dật phụng sự Chúa.
Khi Fatime giả chúc tụng dài dòng xong, công chúa nói: truyen co tich
- Mẹ phúc hậu của tôi, xin cám ơn những lời cầu nguyện của mẹ, tôi rất tin tưởng và mong Chúa ban phát cho. Mẹ lại gần ngồi bên cạnh tôi đây – Fatime giả vờ khiêm tốn ngồi và công chúa lại nói: – Mẹ phúc hậu, tôi đề nghị một điều đừng từ chối: mẹ ở lại đây với tôi để giữ gìn sức khoẻ và để tôi học được ở mẹ những gương tốtt phải phụng sự Chúa như thế nào.
- Thưa công chúa, tôi cầu xin công chúa đừng buộc tôi điều tôi không dám chấp nhận vì phải bỏ những buổi lễ cầu nguyện và hành lễ kính tin.
- Việc đó chẳng khó khăn gì. Tôi có nhiều căn phòng để trống, mẹ chọn một phòng thích hợp nhất có thể hành lễ tự do như nơi ẩn dật của mẹ.
Lão phù thuỷ không có mục đích nào khác là chui được vào lâu đài Aladdin để dễ dàng thực hiện âm mưu của mình, ở đó dưới sự bảo trợ của công chúa tốt hơn là đi đi về yề từ lâu đài đến chỗ ẩn dật, hắn không để công chúa nài nỉ nhiều lần vội nhận lời ngay.
- Thưa công chúa- Hắn nói – Dù đã muốn dứt bỏ khỏi những sinh hoạt thế tục, nhưng một người đàn bà khốn khổ như tôi, đâu dám táo tợn từ chối ý muốn và sự sai bảo của một công chúa có đức tin và nhân ái đến thế.
Nghe trả lời thế, công chúa đứng,dậy nói:
- Mẹ cùng tôi đi xem những căn phòng trống và tự chọn lấy.
Hắn đi theo công chúa Badroulboudour, xem tất cả những phòng công chúa đẫn tới, tất cả đều sạch sẽ và trang bị tốtt, chọn một căn phòng có vẻ kém nhất, vờ nói nó đã quá rất tốtt đối với mình và hắn chọn lựa chỉ để làm vừa lòng công chúa.
Công chúa muốn dẫn hắn lên phòng khách hai mươi bốn cửa sổ để cùng ăn trưa. Lúc ăn thì phải bỏ mạng hắn vẫn che mặt cho đến lúc đó, sợ công chúa biết hắn không phải người đàn bà thánh thiện như nàng nghĩ, hắn khẩn nài miễn việc ấy cho nói hắn chỉ ăn bánh và mấy quả cây, xin để hắn ăn trong phòng mình. Công chúa chấp thuận nói:
- Mẹ phúc hậu, mẹ tự do như ở nơi ẩn đật, tôi cho người đem bữa ăn đến nhưng nhớ rằng tôi chờ mẹ sau khi ăn xong đấy.
Công chúa đi ăn trưa. Fatime đến gặp nàng khi được thái giám báo nàng đã ăn xong. Công chúa nói: truyện cổ tích
- Mẹ phúc hậu của tôi, tôi rất hân hoan có một phụ nữ thánh thiện như mẹ chúc phúc cho lâu đài này. Nhân tiện, mẹ thấy lâu đài này ra sao? Trước khi đưa mẹ đi xem từng phòng, trước hết xin mẹ hãy nói xem mẹ nghĩ gì về phòng khách này?
Nghe hỏi, Fatime giả, cho đến lúc đó chỉ luôn cúi đầu thậm chí không nhìn quanh để đóng tốtt trò lừa bịp, ngẩng nhìh phòng khách khắp lượt rồi nói:
- Thưa công chúa, phòng khách này đúng là rất đẹp. Tuy nhiên, theo ý riêng của tôi có thể thấy không có gì trên đời đẹp hơn thế, tôi thấy hình như vẫn còn thiếu mất một thứ.
- Thứ gì vậy, mẹ phúc hậu Mẹ nói cho biết đi. Tôi vẫn nghĩ và tôi cũng nghe nói thế, ở đây chẳng còn thiếu gì nếu thiếu mất thứ gì đó, tôi sẽ cho làm thêm.
- Thưa công chúa – Fatime giả lại nói rất dè dặt – Xin tha lỗi cho lời nói bộc phát của tôi. Theo tôi nghĩ thật quan trọng nếu trên cao, giữa mái vòm treo một quả trứng đại bàng thì không có gì trên thế giới sánh bằng, lâu đài của công chúa sẽ là một kỳ quan trong vũ trụ.
- Mẹ phúc hậu, đại bàng là loại chim gì và có thể tìm một quả trứng ở đâu?
- Thưa công chúa, đó là một con chim to lớn thần kỳ ở trên ngọn núi cao nhất vùng Caucase, kiến trúc sư lâu đài này có thể tìm được một quả trứng cho công chúa.
Sau khi cám ơn Fatime giả, công chúa Badroulboudour trao đổi những chuyện khác nhưng nàng không quên quả trứng đại bàng, dự định sẽ nói với Aladdin khi chàng đi săn về. Chàng đi săn đã sáu ngày và lão phù thuỷ biết thế muốn lợi dụng thời gian chàng vắng nhà. Ngay tối hôm ấy chàng trở về trong lúc Fatime giả vừa xin phép công chúa rút lui về phòng mình. Aladdin lên ngay phòng công chúa bưôc vào, chào và ôm hôn công chúa nhưng hình như nàng tiếp còn hơi lạnh nhạt.
- Công chúa – Chàng nói – Ta thấy nàng không vui như mọi lần. Trong lúc ta đi vắng có điều gì làm nàng buồn và không bằng lòng chăng? Nàng đừng giấu ta: không có gì ta không làm theo sức mình để nàng hết buồn. nghìn lẻ một đêm
- Việc nhỏ thôi – Công chúa trả lời – Thiếp không lo gì về chuyện đó nên không nghĩ đã thể hiện lên nét mặt để chàng nhận thấy. Nhưng trái lại vì chàng thấy có suy nghĩ gì đó nên thiếp không giấu nguyên nhân tuy rất không đáng kể. Thiếp vẫn nghĩ như chàng lâu đài chúng ta đẹp nhất, hoàn hảo nhất trên đời. Tuy thế em chợt nghĩ sau khi quan sát kỹ phòng khách hal mươl bốn cửa sổ, chàng có thấy như thiếp, không có gì tuyệt vời hơn nếu có một quả trứng đại bàng treo giữa nóc vòm?
- Công chúa, chỉ cần nàng thấy thiếu một quả trứng đại bàng treo ở đấy, ta sẽ nhanh chóng cho làm thêm ngay; không có điều gì ta không làm vì tình yêu đối với nàng.
Ngay lúc đó Aladdin lên phòng khách hai mươi bốn cửa sổ, lấy ra chiếc đèn mà từ khi có mối nguy hiểm vì thiếu gìn giữ chàng mang luôn trong người và xát mạnh. Thần đèn hiện ra, Aladdin bảo:
- Thần đèn, trên vòm này thiếu một quả trứng đại bàng treo ở giữa. Tôi cầu mong, nhân danh đèn, thần làm thế nào để bổ sung vào.
Aladdin nói chưa dứt câu, thần đèn thét lên một tiếng rất to và đáng sợ khiến gian phòng rung lên và Aladdin loạng choạng suýt ngã nhào.
Thế nào? Khốn nạn – Thần đèn quát làm run cả người vững vàng nhất – Tôi và các bạn tôi đã làm mọi việc cho Người vẫn chưa đủ sao mà còn vô ơn khôn cùng, đòi hỏi tôi mang chủ tôi đến và treo lên giữa vòm này? Việc xúc phạm đó đáng thiêu huỷ tất cả thành tro ngay, Người vợ Người và toà lâu đài. Người còn may không phải chính Người trực tiếp nghĩ ra lời cầu xin đó. Người cần biết kẻ xúi bẩy: em lão phù thuỷ châu Phi, kẻ thù của Người, đang ở trong lâu đài đội lốt Fatime người đàn bà thánh thiện mà hắn đã giết. Hắn đã gợi ý cho vợ Người lời thỉnh cầu nguy hại Người vừa nói. Ý đồ của hắn là giết Người, phải chú ý cẩn thận – Nói xong thần đèn biến mất.
Aladdin không để mất thì giờ. Chàng đã nghe nói về người đàn bà thánh thiện, cách bà chữa bệnh đau đầu như người ta đồn đại. Chàng xuống phòng công chúa, không nói gì về việc xảy ra, ngồi xuống than phiền cảm thấy rất đau đầu, đưa tay lên bóp trán. Công chúa bảo người đi mời người đàn bà thánh thiện đến và trong lúc chờ đợi nàng kể lại với chồng trường hợp bà ấy có trong lâu đài, và nàng đã cho bà ta ở một gian phòng.
Fatime giả bước vào phòng, Aladdin nói: cổ tích
- Mẹ phúc hậu của tôi, mẹ lại gần đây. Tôi rất sung sướng được gặp mẹ và hạnh phúc được mẹ ở lại đây. Tôi vừa bị một cơn đau đầu dữ dội. Tôi cầu xin mẹ cho những lời cầu nguyện và hy vọng mẹ không từ chối làm ơn giúp tôi chữa khỏi bệnh ấy.
Dứt lời chàng đứng dậy, đầu cúi xuống nhăn nhó. Fatime giả tiến đến bên cạnh nhưng tay để vào đầu dao găm mang trong mình dưới tà áo. Aladdin để ý thấy, liền nắm lấy tay trước khi hắn rút ra và dùng dao của mình đâm vào tim hắn, vứt xác hắn trên sàn.
- Chàng thân yêu, chàng làm gì vậy? – Công chúa rất ngạc nhiên kêu lên – Chàng giết chết người đàn bà thánh thiện rồi.
- Không, công chua của ta – Aladdin không hề cảm động trả lời – Ta không giết Fatime mà là một tên bất nhân sẽ ám hại ta nếu ta không được báo trước: Tên gian ác này – Chàng vừa nói thêm vừa lật mạng che mặt hắn – Hắn đã bóp cổ Fatime mà nàng thương tiếc và cải trang dưới lốt của bà để đến giết ta: Ta nói để nàng biết rõ hơn, hắn chính là em lão phù thuỷ đã bắt cóc nàng.
Aladdin kể lại nhờ ai mình biết những chi tiết ấy và cho người mang xác chết đi. Như vậy Aladdin thoát khỏi hai anh em lão phù thuỷ làm hại mình. Ít năm sau nhà vua già quá mất đi. Vì không có con trai, với tư cách thừa kế chính thống, công chúa Badroulboudour nối ngôi cha trị vì san sẻ quyền lực tối cao cùng Aladdin. Hai vợ chồng trị vì đất nước trong nhiều năm, để lại một đàn con đông vui và vững mạnh. thế giới

***

Thưa bệ hạ, hoàng hậu Scheherazade nói khi kết thúc những cuộc phiêu lưu về chiếc đèn thần, bệ hạ chắc nhận thấy trong bản chất lão phù thuỷ châu Phi một con người say mê quá đáng của cải bằng những con đường tội lỗi, phát hiện ra nhiều nhưng không được hưởng thụ vì không xứng đáng. Ỏ Aladdin Người thấy ngược lại, một người có nguồn gốc thấp hèn đã vươn lên đến địa vị các vua chúa vì biết sử dụng đủ mức cần thiết những của cải vô tình rơi và tay mình. Trong con người nhà vua, bệ hạ đã biết đó là một đấng quân vương phúc hậu, công bằng và chính trực đã trải qua nguy hiểm như thế nào, thậm chí suýt bị lật đổ chỉ vì một mệnh lệnh bất công quá phi lý, trái với mọi nguyên tắc công minh, vội vã kết tội tử hình một người vô tội không thèm nghe thanh minh. Cuối cùng chắc bệ hạ ghê tởm hành động tồi tệ… của hai lão phù thuỷ bỉ ổi, một lão hy sinh đời mình để có của cải và lão kia đem cuộc sống và tôn giáo của mình báo thù cho một kẻ cũng bỉ ổi như lão và cũng như kẻ ấy, bị trừng phạt vì việc làm độc ác của mình.
Vua Ấn Độ cho hoàng hậu Scheherazade, vợ mình biết ông rất hài lòng về những điều kỳ diệu vừa được nghe về chiếc đèn thần và những chuyện mỗi đêm bà kể làm ông rất vui thích. Thực vậy chúng rất thú vị và hầu như luôn luôn thấm đậm đạo đức. Ông thấy rõ hoàng hậu khéo léo tiếp nối những chuyện này với chuyện khác và không giận vì cách đó nàng làm ông trì hoãn lời thề long trọng chỉ giữ một người đàn bà trong một đêm và sáng hôm sau cho đem hành hình. Thậm chí ông hầu như không có ý nghĩ nào khác để xem cuối cùng ông có làm cho nàng cạn kiệt nguồn chăng.
Với ý định ấy, sau khi nghe hết câu chuyện Aladdin và Badroulboudour, khác hẳn những chuyện cho đến lúc đó, sau khi thức dậy, ông hỏi hoàng hậu cũng vừa thức dậy đã hết chuyện kể chưa.
- Hết chuyện kể ư, thưa bệ hạ? -Hoàng hậu trả lời và xin đề nghị tiếp – Còn lâu thiếp mới hết: số lượng lớn quá đến nỗi thiếp cũng không tính được chính xác với bệ hạ. Điều thiếp sợ là cuối cùng Người thấy buồn, mệt mỏi không muốn nghe nữa chứ không phải thiếp không còn gì kể.
- Nàng đừng sợ thế – Vua lại nói – Xem nàng có gì mới kể cho ta nghe nào.

Aladdin và cây đèn thần - Phần 11

Khi lão phù thuỷ châu Phi đã ngồi xuống, để lão khỏi lúng túng như nàng thấy, nàng lên tiếng với cách nhìn làm lão nghĩ mình không còn ghê tởm như trước đây nàng tỏ ra với lão. Nàng nói:
- Ông ngạc nhiên thấy tôi khác hẳn như đã thấy tôi cho đến nay, nhưng sẽ không lạ gì nữa khi tôi nói với ông tính tình của tôi trái ngược với sự buồn rầu, chán nản, với những lo buồn mà tôi tìm cách rũ bỏ từ khi tôi thấy vấn đề đã qua đi. Tôi suy nghĩ điều ông nói về số phận của Aladdin, tôi biết tính phụ hoàng, chắc chắn chàng không thoát khỏi sự giận dữ của Người. Do vậy dù có than khóc suốt dời tôi cũng không làm chàng sống lại được. Vì thế sau khi đã làm trọn nhiệm vụ với chàng, kể cả cho đến lúc chàng xuống mồ, tôi thấy phải tìm mọi cách để khuây khoả. Đó là những lý do ông thấy tôi thay đổi. Để bắt đầu rũ bỏ mọi chuyện phiền muộn, nhất định rũ bỏ đi hoàn toàn và tin chắc ông muốn làm bạn với tôi, tôi đã bảo chuẩn bị một bữa khuya chúng ta cùng ăn uống với nhau. Nhưng tôi chỉ có rượu Trung Quốc mà đang ở châu Phi, tôi muốn thử nếm rượu ở đây làm ra và tôi nghĩ, nếu có, ông sẽ tìm được loại tốt nhất.
Lão phù thuỷ châu Phi không nghĩ hạnh phúc có thể đến mau lẹ và dễ dàng được công chúa Badroulboudour gia ân cho như thế, lão giãi bày rằng không có đủ lời để nói lên sự cảm động của lòng mình trước lòng tốt của công chúa. Lão nói đến rượu châu Phi công chúa vừa gợi ra, ca tụng trong những thế mạnh châu Phi có thể tự hào, việc sản xuất rượu ngon là một trong những mặt chính đặc biệt trong vùng này có loại bảy năm chưa đùng đến và không đánh giá quá đáng, là loại rượu vượt hẳn những rượu ngón nhất trên thế giới. Lão nói thêm:
- Nếu công chúa cho phép, tôi sẽ đi kiếm hai chai và trở lại ngay.
Tôi không muốn làm phiền ông việc ấy, có lẽ cử một người nào đó đi thì hơn.
- Tôi cần thiết phải tự mình đi. Không ai ngoài tôi biết chủ hiệu ở đâu và mở được chỗ chứa bí mật.
- Nếu thế – Công chúa nói – Ông cứ đi và chóng trở lại. Càng lâu tôi càng nóng lòng gặp lại ông và nên nhớ chúng ta ăn cùng nhau ngay khi ông trở về.
Lão phù thuỷ tràn đầy hy vọng, không phải chạy mà đúng hơn là bay đi lấy rượu bảy năm và nhanh chóng trở về Công chúa chắc lão sẽ vội vã, tự mình bỏ loại bột Aladdin đưa cho vào một chiếc cốc để riêng. Họ ngồi đối diện nhau ở bàn ăn, lão phù thuỷ quay lưng về phía tủ buýp-phê. Công chúa nói:
- Nếu ông muốn, tôi sẽ cho biểu diễn ca nhạc nhưng chỉ ông và tôi với nhau, tôi nghĩ chúng ta nói chuyện thích thú hơn.
Lão thấy việc chọn lựa ấy của công chúa lại là một ân huệ mới.
Sau khi ăn một lúc, công chúa đòi uống. Nàng chúc sức khoẻ lão phù thuỷ mà uống xong nàng nói:
- Ông đúng thật khi ca tụng rượu của các ông, tôi chưa bao giờ uống loại rượu ngon đến thế.
- Công chúa xinh đẹp – Lão vừa nói vừa cầm lên chiếc cốc người ta đưa – Rượu chúng tôi nhận được một vị ngọt mới vì công chúa đã khen.
- Hãy uống chúc sức khoẻ tôi, ông sẽ thấy tôi cũng biết thưởng thức rượu.
Lão uống chúc sức khoẻ công chúa và nhìn vào cốc rượu nói:
- Thưa công chúa, tôi rất sung sướng đã đánh loại rượu này vào một dịp tốt như thế, tôi tự thú nhận trong đời chưa bao giờ uống loại rượu ngon đến vậy và trong trường hợp vui vẻ như bây giờ.
Họ tiếp tục ăn và uống ba lần nữa, công chúa bằng sự chiều chuộng làm lão phù thuỷ say mê, ra hiệu cho thị nữ rót rượu đầy cốc cho mình và cũng rót vào cốc của lão phù thuỷ. Khi mỗi người đã cầm một cốc rượu, công chúa nói với lão:
- Tôi không biết ở nước ông khi ngườị ta yêu nhau người ta uống rượu với nhau như thế nào? ớ Trung Quốc chúng tôi, trai gái yêu nhau đổi cốc cho nhau và uống chúc sức khoẻ nhau.
Đồng thời nàng đưa cốc rượu nàng đang cầm và giơ tay kia nhận cốc rượu của lão.
Lão phù thuỷ vội vã đổi cốc, vui vẻ nhìn nhận việc này là biểu hiện chắc chắn nhất đã chinh phục được trái tim công chúa nên thấy hạnh phúc tột độ. Trước khi uống lão cầm cốc rượu trên tay nói:
- Thưa công chúa, người châu Phi chúng tôi cũng tinh tế trong nghệ thuật yêu đương với mọi khía cạnh của nó, học được cách này tôi cũng phải thể hiện để biết nhạy cảm với ân huệ tôi được đón nhận. Công chúa đáng mến, không bao giờ tôi quên, khi uống cốc rượu của nàng, đã tìm lại được cuộc sống mà sự lạnh nhạt của nàng làm mất hết hy vọng.
Công chúa Badroulboudour chán ngấy lời nói bất tận của lão phù thuỷ, liền ngắt lời lão:
- Chúng ta uống đi, sau đó ông nói tiếp với tôi.
Nàng đưa cốc rượu lên miệng chỉ đụng vào môi trong lúc lão phù thuỷ vội vàng tỏ cho nàng thấy lão thành tâm uống một hơi không để lại giọt nào. Lão ngả đầu về phía sau uống cạn cốc rượu, cho chóng hết. Lão đứng một lúc như thế rồi công chúa thấy đôi mắt đảo ngược, lão ngã đập lưng xuống bất tỉnh.
Công chúa không cần bảo đi mở cửa bí mật cho Aladdin. Thị nữ đã được bố trí đúng cách nhau từng đoàn từ phòng khách đến dưới cầu thang nên lão phù thuỷ vừa ngã xuống thì cánh cửa vừa mở.
Aladdin bước vào, lên phòng khách. Thấy lão phù thuỷ nằm ngửa trên ghế xô-pha, chàng ngăn công chúa vừa đứng lên, mừng rỡ đến ôm hôn mình:
- Công chúa – Chàng nói – Chưa phải lúc này, ta buộc phải đề nghị công chúa hãy đi về phòng, bảo mọi người để ta ở lại một mình để làm việc đưa nàng trở về Trung Quốc cũng nhanh như khi đến.
Khi công chúa đã ra ngoài cùng các thị nữ và thái giám, Aladdin đóng cửa, lại gần xác lão phù thuỷ mở rộng áo lấy chiếc đèn bọc kín trong đó như công chúa bảo. Cậu xát mạnh vào đèn, thần đèn xuất hiện nói như thường lệ. Aladdin bảo:
- Thần đèn, tôi gọi thần để ra lệnh nhân danh cây đèn, chủ nhân của thần, đưa ngay lâu đài này trở lại Trung Hoa đặt vào đúng chỗ, đúng vùng đã bị mang đi.
Thần gật đầu vâng lệnh rồi biến đi. Việc chuyển dịch lâu đài chỉ trong một thời gian rất ngắn, người ta chỉ cảm thấy hai chấn động rất nhẹ, một nhấc lên ở châu Phi và một đặt xuống ở Trung Hoa đối điện với hoàng cung như trước.
Aladdin xuống phòng công chúa, lúc ấy mới ôm hôn nàng:
- Công chúa – Chàng nói – Ta có thể đảm bảo niềm vui của nàng và của ta sẽ trọn vẹn vào sáng mai.
- Công chúa chưa ăn khuya xong và Aladdin cũng cần ăn, nàng cho đưa thức ăn đã chuẩn bị nhưng chưa đụng tới lên phòng khách hai mươi bốn cửa sổ. Hai người ngồi ăn với nhau, uống loại rượu của lão phù thuỷ, thoả mãn hàn huyên rồi đi về phòng ngủ.
Từ khi lâu đài và công chúa Badroulboudour bị bốc đi, vua cha buồn bã không nguôi, cho rằng con mình đã mất. Hầu như đêm ngày ông cũng không ngủ và thay vì tránh nhắc tới những điều có thể làm mình buồn, ông lại càng hay tìm đến hơn. Trước đây chỉ buổi sáng ông mới lên gian phòng trống để ngắm không chán lâu đài, nay ông lên đấy nhiều lần mỗi ngày, khóc than, đắm sâu hơn và đau khổ với ý nghĩ không thấy điều mình thích nữa và mất đi người ông thân thiết nhất trên đời. Trời vừa sáng nhà vua lên căn phòng bỏ trống cùng ngày lâu đài Aladdin vủa được mang trở lại. Vào phòng trong lòng đau khổ, ông buồn bã nhìn về chỗ quen thuộc nghĩ vẫn trống không. Thấy không còn chỗ trống, lúc đầu ông cho vì sương mù nhưng nhìn kỹ hơn ông thấy đúng là lâu đài của Aladdin. Niềm vui và lòng phấn khởi thay cho buồn rầu. Ông vội vã trở về phòng mình, ra lệnh thắng một con ngựa đi ngay sang lâu đài Aladdin.
Aladdin dự kiến những việc có thể xảy ra, dậy từ bình minh và sau khi mặc một bộ quần áo đẹp nhất, lên phòng khách hai mươi bốn cửa sổ thì thấy nhà vua đang đi đến. Chàng xuông nhà, vừa đúng lúc để đón vua ở cuối bậc thang, giúp ông xuống ngựa. Vua bảo:
- Aladdin, ta chỉ có thể nói chuyện với anh sau khi gặp và hôn con gái ta.
Aladdin đưa nhà vua lên phòng công chúa Badroulboudour. Nàng lúc dậy đã được Aladdin báo là không còn ở châu Phi nữa mà đang ở Trung Hoa, trong kinh thành, trước mặt hoàng cung. Nàng vừa mặc quần áo xong thì vua cha vào, nước mắt dàn dụa ôm hôn nàng nhiều lần. Công chúa vô cùng vui sướng được gặp lại cha mình.
Vua không thể mở miệng nói ngay vì khóc và nghĩ con gái đã bị mất hẳn còn công chúa khóc vì vui sướng được trở về bên cạnh vua cha.
Cuối cùng nhà vua nói:
- Con gái, ta nghĩ niềm vui gặp lại ta làm con có vẻ ít thay đổi như đã không gặp điều gì xấu. Tuy vậy ta biết con đã đau khổ nhiều. Bị mang đi trong cả một lâu đài, gấp gáp như vậy hẳn phải rất lo sợ. Ta muốn con kể lại sự việc ra sao và đừng giấu ta điều gì.
Công chúa vui sướng trả lời:
- Thưa bệ hạ, nếu con ít thay đổi, xin bệ hạ biết cho là con mới bắt đầu thở được từ sáng hôm qua khi có mặt Aladdin, ngườí chồng thân yêu đã giải phóng cho con, người mà con tưởng đã mất đi cùng hạnh phúc, được ôm hôn chàng con hồi phục được sắc thái như trước.
Thực ra mọi khổ cực của con là bị tách khỏi bệ hạ và chồng thân yêu của con, không chỉ riêng về tình nghĩa vợ chồng mà còn mối lo chàng bị bệ hạ nóng giận xử oan. Con đau khổ ít hơn vì tên cướp đoạt với những lời nói trái tai của hắn nhưng con biết cách ngăn chặn hắn. Về việc con bị bắt cóc Aladdin không biết gì hết: chính vì con đã rất vô tư.
Để vua cha tin nàng kể lại tỷ mỷ chuyện tên phù thuỷ trá hình làm người bán đèn rao đổi đèn mới lấy đèn cũ và để vui đùa nàng cho đưa xuống đổi chiếc đèn của Aladdin mà nàng không biết nó là vật linh thiêng liên quan tới việc di chuyển lâu đài sang châu Phi. Sau khi đổi đèn, nhận ra tên phù thuỷ xảo trá lúc hắn đến gặp và tán tỉnh lấy nàng làm vợ, nàng thực sự đau đớn về tâm trí cho đến khi Aladdin đến. Rồi họ bày mưu để lấy lạI chiếc đèn thần bằng cách nàng phẩi giả vờ thân thiện, mời hắn ăn khuya và đầu độc hắn. Phần còn lại, nàng nói để Aladdin kể tiếp.
Aladdin kể nốt đoạn cuối cho nhà vua:
- Thưa bệ hạ, khi người ta mở cửa bí mật, con lên phòng khách thấy tên phản trắc đã nằm chết trên ghế vì uống phải thuốc độc. Để công chúa ở lại không tiện, con bảo công chúa về phòng cùng thị nữ. Còn một mình, con lấy chiếc đèn
trong người lão phù thuỷ ra, bí mật ra lệnh như hắn đã làm để di chuyển toà lâu đài. Con đưa lâu đài về đúng chỗ cũ, dẫn công chúa về với bệ hạ như Người đã ra lệnh. Con không dám giấu giếm gì bệ hạ, xin Người lên phòng khách sẽ thấy tên phù thuỷ đã bị trừng phạt thật đúng tội.
Để tin được tất cả là sự thật, nhà vua đứng dậy đi lên tầng trên và khi thấy lão phù thuỷ châu Phi đã chết mặt trắng bệch vì thuốc độc. Ngài trìu mến ôm hôn Aladdin và nói:
- Phò mã, đừng trách ta về cách xử sự đối với con, tình cảm cha con buộc ta phải thế và ta đáng được con tha lỗi vì đã làm quá với con.
- Thưa bệ hạ, con không hề dám phàn nàn về cách đối xử của bệ hạ, Người chỉ làm việc cần phải làm. Tên phù thuỷ, bất nhân, kẻ tệ hậi nhất trong thiên hạ là nguyên nhân độc nhất về sự bất hạnh của con. Khi bệ hạ rảnh con sẽ kể một thủ đoạn khác hắn đã làm đối với con, không kém đen tối như việc vừa rồi mà nhờ Trời con thoát được.
- Ta sẽ dành một buổi rảnh rang sau này. Bây giờ chúng ta vui mừng hàn huyên đã và cho đưa vật bẩn thỉu này đi.
Aladdin ra lệnh lấy xác lão phù thuỷ châu Phi vứt vào đống rác làm mồi cho chim và thú vật. Nhà vua cho nổi trống kèn và các nhạc cụ khác, tổ chức lễ hội trong mười ngày mừng công chúa, Aladdin và toà lâu đài đã trở về.
Như vậy là Aladdin lần thứ hai thoát khỏi cái chết hầu như không tránh khỏi, nhưng không phải đã hết, chàng còn phải trải qua nguy hiểm thứ ba nữa.
Lão phù thuỷ châu Phi có một người em không kém lão về bùa phép phù thuỷ, có thể nói còn hơn lão về độc ác và mưu mẹo. Hai anh em không luôn chung với nhau ngay cả trong cùng một thành phố, thường một người ở đầu mặt trời mọc thì người kia ở đầu mặt trời lặn nhưng hàng năm qua bói toán họ vẫn biết tin tức của nhau, tình trạng thế nào, có cần giúp đỡ nhau không.
Ít lâu sau khi lão phù thuỷ bị thảm bại vì việc quấy rối hạnh phúc của Aladdin, em lão không ở châu Phi mà ở tại một đất nước rất xa, qua một năm không được tin và muốn biết anh ở đâu, sức khoẻ ra sao và đang làm gì. Em lão vẫn luôn mang theo hộp bói toán, lấy hộp ra, san cát vẽ hình, lập bản tử vi đoán số, nhận thấy anh đã bị đầu độc chết ngay trong một ngôi nhà ở Trung Quốc, tại một địa điểm trong kinh thành do một người nguồn gốc thấp kém nhưng lấy được công chúa đầu độc.
Biết được như thế, em lão phù thuỷ không mất thì glờ khóc lóc thương tiếc chẳng làm anh hắn sống lại được. Hắn quyết định ngay phải báo thù và lên ngựa sang Trung Quốc. Qua bao nhiêu đồng bằng, sông, núi, sạ mạc và sau một hành trình dài, vất vả không tưởng được, cuối cùng hắn đến Trung Quốc và vào kinh thành hắn đã tìm ra trong bói toán. Chắc chắn mình đã không lầm lẫn về cả kinh thành và vương quốc, hắn tìm một chỗ ở.
Ngày hôm sau hắn ra phố, bỏ qua mọi thú vui cảnh đẹp, quyết tâm thực hiện một ý đồ nham hiểm. Hắn lui tới những nơi đông người và chú ý lắng nghe những điều người ta nói chuyện. Ỏ một nơi tổ chức nhiều trò chơi, trong lúc một số người chơi, thì có những người ngồi trò chuyện về những tin tức vừa xảy ra, rồi chuyện trong gia đình. Hắn nghe kể về đạo đức lòng thương người của một phụ nữ ẩn đật tên là Fatime và những phép lạ của bà. Hắn nghĩ người phụ nữ này có thể có ích gì đó cho việc làm của mình. Hắn lân la làm bạn với một người trong bọn, xin cho biết rõ về người đàn bà thánh thiện ấy và bà có những phép lạ gì. Người ấy nói:
Sao? Ông chừa bao giờ thấy và nghe nói về bà ư? Bà là niềm thán phục của toàn thành phố nêu gương tết cho mọI người về sự chay tịch hà khắc. Trừ ngày thứ hai, thứ sáu bà không rời khỏi nơi ân dật, những ngày ra phố bà làm những điều tốt lành vô cùng, không có ai đau đầu mà không được chữa khỏi do bàn tay bà đặt lên đầu.
Không mong muốn gì hơn, hắn hỏi chỗ ở của người phụ nữ thánh thiện ấy.
Dù đã được ngườI ta chỉ, nhưng để nắm rõ hơn hắn theo dõi những việc làm của bà ngay ngày đầu tiên bà ra phố và theo sát đến chíều tối khi bà về nơi ẩn dật. Biết rõ địa điểm rồi hắn trở lại chỗ cũ, nơi ngườI ta uống một chén nước nóng và nếu muốn, có thể ngủ qua đêm, nhất là những ngày nóng nực ở địa phương này người ta thích nằm trên một chiếc chiếu hơn trên giường.
Tên phù thuỷ trả một ít tiền, nằm lại đó và nửa đêm dậy đi thẳng đến chỗ ẩn dật của người phụ nữ thánh thiện, Fatime như cả thành phố gọi bà. Cửa mở chẳng khó khăn gì vì chỉ đóng bằng một cái chết. Hắn bước vào, khẽ khép cửa lại, thấy Fatime đang ngủ dưới ánh trăng, trên một chiếc ghế xô-pha tựa lưng vào vách nhà. Hắn lại gần bà, rút ngọn dao găm ra và đánh thức bà dậy.
Mở mắt, Fatime khốn khổ rất ngạc nhiên thấy một người đàn ông sắp đâm mình. Dí dao vào ngực bà, hắn nói:
- Nếu bà kêu lên hoặc làm một tiếng động nào, tôi giết ngay. Bà hãy dậy đi và làm như tôi bảo.
Fatime đang mặc cả quần áo ngoài nằm ngủ, sợ run rẩy đứng dậy. Hắn nói:
- Đừng sợ, tôi chỉ muốn mặc bộ quần áo của bà, cởi ra đưa cho tôi và bà mặc quần áo tôi.
Họ đổi cho nhau và sau khi mặc quần áo của Fatime xong, lão phù thuỷ bảo:
- Bà tô mặt cho tôi giống như của bà và màu không được phai.
Thấy bà còn run và để bà yên tâm làm theo lời mình hắn nói:
- Bà đừng sợ, tôi nhắc lại, nhân danh Chúa, tôi không giết bà đâu.
Fatime đưa hắn vào phòng, châm đèn, lấy một loại nước trong lọ dùng bàn chải xát vào mặt hắn, khiến cho mặt hắn cùng màu với mặt bà. Sau đó bà đội mũ với tấm mạng của bà lên đầu hắn, hướng dẫn hắn làm thế nào để che mặt khi đi ra phố. Cuối cùng, sau khi quàng vào cổ hắn vòng tràng hạt xuống đến nửa người, bà đặt vào tay hắn chiếc gậy bà thường dùng và đưa gương soi cho hắn xem:
- Ông nhìn đi, ông giống tôi đến mức không làm hơn thế được.
Lão phù thuỷ thấy mình đã như mong muốn nhưng không giữ lời như đã trịnh trọng hứa với Fatime phúc hậu. Để khỏi có máu vì đâm dao, hắn bóp cổ bà, khi thấy bà đã chết, hắn nắm chân kéo vứt vào góc nơi ẩn dật của bà.
Lão phù thuỷ cải trang thành Fatime, người đàn bà thánh thiện ở lại trong nơi ẩn dật suốt đêm còn lại sau khi làm một vụ giết người ghê tởm. Sáng hôm sau, tuy không phải là ngày người phụ nữ thánh thiện ra ngoài, hắn vẫn đi, tin chắc người ta không hỏi về điều ấy và dù có hỏi hắn cung vẫn có cách để trả lời. Vì việc đầu tiên hắn đến đây là để thăm dò về toà lâu đài và chính muốn thực hiện ý đồ mà hắn đi ngay về hướng đó.

Aladdin và cây đèn thần - Phần 10

Aladdin không một chút nghi ngờ về lý do thực sự của việc cử toán cận vệ đi tìm, vừa săn bắn vừa đi về cung. Nhưng khi cách thành phố nửa dặm, toán kỵ sĩ vây quanh chàng và viên chỉ huy lên tiếng:
- Phò mã Aladdin, rất tiếc phải tuyên bố lệnh của nhà vua bắt ông và dẫn về như tội phạm quốc gia. Chúng tôi đề nghị đừng nghĩ chúng tôi làm nhiệm vụ là sai trái và tha lỗi cho.
Lời tuyên bố ấy làm Aladdin hết sức ngạc nhiên, hỏi viên chỉ huy mình bị kết tội gì, ông này trả lờị ông và người của ông không biết gì hết.
Aìaddin thấy người của mình ít hơn toán quân nhiều tuy họ ở đàng xa, chàng xuống ngựa và nói:
- Tôi đây, các ông cứ làm theo mệnh lệnh. Tôi chỉ có thể nói mình chẳng phạm một tội gì đối với nhà vua cũng như đối với quốc gia.
Người ta quàng vào cổ chàng một dây xích khá to và dài quấn vào quanh người bó cả hai tay. Khi viên chỉ huy bước lên đi đầu, một kỵ sĩ cầm đầu dây xích, đi bên cạnh chỉ huy dẫn Aladdin phải đi bộ về thành phố.
Khi đoàn kỵ sĩ vào đến ngoại ô, những người đầu tiên thấy người ta dắt Aladdin như tội phạm quốc gia, nghĩ rằng triều đình sẽ chặt đầu chàng. Dân chúng vốn mến mộ chàng, nhiều người cầm gươm và vũ khí khác, những người không có vũ khí cầm đá, cùng ào theo toán ky sĩ. Chẳng mấy chốc đám đông dân chúng lấn át cả toán kỵ sĩ, rất may họ có thể về đến hoàng cung không bị dân chúng cướp mất Aladdin. Họ cẩn thận lúc nói rộng hàng, lúc khép chặt choán hết bề rộng đường đi. Đến quảng trường hoàng cung tất cả dân chúng có vũ khí đứng thành một hàng ngang ngoảnh mặt về phía hoàng cung cho đến khi chỉ huy dẫn Aladdin vào trong hoàng cung và những người gác đóng chặt cửa.
Aladdin bị dẫn đến trước nhà vua đang đứng chờ trên ban công cùng quạn tể tướng. Vừa thấy chàng ngài ra lệnh cho đao phủ chờ sẵn ở đấy chặt đầu phạm nhân, không muốn nghe một lời thanh minh nào.
Đao phủ nắm lấy Aladdin, bỏ dây xích ở cổ và quanh người, trải trên đất một tấm đa đầy máu những người bị hành hình, bắt chàng quỳ xuống và bịt mắt chàng. Ông ta rút gươm, lấy đà, múa gươm lấp lánh ba vòng và chờ lệnh vua để hạ thủ.
Trong lúc đó quan tể tướng thấy đám đông đân chúng trên quảng trường dồn toán kỵ sĩ vào và trèo lên nhiều chỗ tường hoàng cung để xông vào. Trước khi vua ra hiệu xử tử, tể tướng vội ngăn nhà vua lại:
- Thưa bệ hạ, xin Người nghĩ kỹ về việc sắp làm. Hoàng cung có thể bị phá và mọi chuyện sẽ trở nên nguy hiểm.
- Hoàng cung của ta bị phá? Kẻ nào có gan như vậy?
- Thưa bệ hạ, xin Người nhìn vào những bức tường hoàng cung và quảng trường, Người sẽ thấy rõ điều thần nói là đúng.
Vua thấy kinh thành của mình náo động mạnh mẽ như thế, vội sợ hãi, ra lệnh ngay cho đao phủ bỏ gươm xuống, bỏ vải bịt mắt và để Aladdin được tự do. Ngài cũng ra lệnh cho quân cận vệ hô lớn nhà vua đã gia ân cho Aladdin và mọi người lui ra ngoài.
Những người đã trèo lên tường hoàng cung thấy như vậy, từ bỏ ý đồ tấn công. Họ nhảy xuống vui mừng vì đã cứu được người họ thực sự yêu mến, và thông báo điều đó với những người vây quanh. Tin được truyền đến dân chúng ở quảng trường cùng tiếng loan báo của quân thị vệ được loa báo rộng. Vua vừa trả tự do cho Aladdin làm nguôi dân chúng, việc náo động chấm đứt và rồi ai về nhà nấy.
Aladdin được cởi trói, ngẩng đầu nhìn lên nhà vua cao giọng với thái độ xúc động:
- Thưa bệ hạ con khẩn cầu Người gia ân cho them một điều là cho biết con phạm tội gì?
- Tội gì à, kẻ phản trắc? Ngươi không biết sao? – Vua nói – Lên đây và ta cho ngươi biết rõ.
Aladdin đi lên.
- Đi theo ta – Vua bảo và quay lưng đi trước không nhìn đến chàng. Ngài dẫn chàng đến cửa sổ gian phòng trống: – Vào đi, ngươì phải biết lâu đài của ngươi ở đâu, nhìn mọi phía và cho ta biết nó ra sao rồi.
Aladdin nhìn không thấy gì. Chàng nhìn khắp vùng đất đã xây dựng lâu đài, không đoán được vì sao nó biến mất. Tình huống khác thường và kỳ lạ này làm chàng lung túng, ngạc nhiên hết sức không thể trả lời nhà vua một lời. Nhà vua sốt ruột nhắc lại:
- Ngươi hãy nói lâu đài của ngươi ở đâu, con gái ta ở đâu?
Aladdin lên tiếng nói:
Thưa bệ hạ, con thấy rõ, xin thú thực, lâu đài con cho xây dựng không còn ở chỗ cũ; con thấy nó đã biến mất và cũng không thể nói nó ở đâu nhưng con cam đoan với bệ hạ con không làm gì trong hiện tượng này.
- Ta không cần biết lâu đài của ngươi ra sao rồi. Ta lo về con gái ta hàng triệu lần hơn. Ta muốn ngươi tìm lại cho được con ta, nếu không ta chặt đầu ngươi không gì cản trở ta được.
- Thưa bệ hạ – Aladdin lại nói – Con cầu xin bệ hạ cho con bốn mươi ngày để cấp tốc đi tìm. Nếu trong thời gian ấy con không tìm được con xin hứa sẽ đưa đầu mình đến trước chân Người. Người muốn làm gì con cũng thoả lòng.
- Ta cho ngươi bốn mươi ngày theo yêu cầu nhưng đừng lạm dụng sự gia ân của ta, đừng hy vọng thoát khỏi cơn giận dữ của ta. Bất cứ ngươi trốn chỗ nào trên mặt đất ta cũng tìm được ngươi.
Aladdin rút lui ,rất nhục nhã trong tình trạng đáng thương. Chàng qua các sân hoàng cung đầu cúi xuống, không dám ngẩng mặt nhìn, những võ quan trong sân quay lưng lại nên không thấy chàng và chàng cũng không muốn gặp họ nữa. Nhưng nếu họ lại gần để an ủi hoặc giúp đỡ, họ sẽ không nhận ra Aladdin nữa: bản thân chàng cũng không nhận ra mình, không còn tỉnh táo gì nữa. Điều ấy thể hiện rất rõ khi ra khỏi hoàng cung, không nghĩ đến việc mình làm, chàng đi gõ cửa từng nhà và hỏi những người gặp trên đường có thấy lâu đài của chàng ở đâu không hoặc có biết tin gì về nó không.
Những lời hỏi đó làm mọi người nghĩ Aladdin mất trí. Một số chỉ cười nhưng những người biết điều hơn đặc biệt những người có quan hệ bạn bè hoặc buôn bán với cậu thực sự thông cảm. Chàng ở trong thành phố ba ngày, lúc chỗ này lúc ehỗ khác, chỉ ăn khi người ta mang cho và không biết làm gì khác.
Cuối cùng không thể sống trong tình trạng khốn khổ như vậy trong thành phố trước đây mệnh danh giá thế, chàng ra khỏi thành phố đi về đồng ruộng, qua nhiều cánh đồng với tình trạng không ổn định khổ sở và đến tối thì nghĩ tới một bờ sông. Chàng tuyệt vọng: Ta tìm lâu đài ở đâu bây giờ? Đến tỉnh nào, nước nào, phần đất thế giới nào để tìm ra nó và công chúa thân yêu của ta? Không bao giờ có kết quả được, phải giải thoát bao mệt nhọc và buồn tủi đang hành hạ ta thì hơn . Chàng sắp nhảy xuống song nhưng nghĩ là một người Hồi giáo trung thành, phải rửa tay trước khi chết. Chàng lại bờ sông rửa mặt, rửa tay theo tập quán. Chỗ này hơi dốc và ẩm ướt,chàng trượt chân và rơi xuống sông nếu không kịp bám vào một hòn đá gần chỗ đứng. May mắn cho chàng đang đeo chiếc nhẫn lão phù thuỷ đưa cho lúc xuống hầm ngài lấy chiếc đèn thần. Để giữ mình ,khỏi rơi xuống sông, chàng Xát mạnh chiếc nhẫn vào đá Ngay lúc ấy thần nhẫn đã xuất hiện trước đây dưới hang lại có mặt, hỏi chàng:
- Người muốn gì? Tôi sẵn sàng vâng lệnh Người như kẻ nô lệ của Người và tất cả những ai đeo nhẫn trên tay, tôi và những nô lệ khác của nhẫn đều thế.
Aladđin phấn khởi vì sự xuất hiện bất ngờ trong tình thế tuyệt vọng của mình, trả lời:
- Thần nhẫn cứu tôi một lần nữa bằng cách cho biết lâu đài tôi xây dựng ở đâu và đưa nó về lại chỗ cũ cho tôi.
- Điều Người yêu cầu – Thần nhẫn nói – Không thuộc phạm vi của tôi, Người phải đề nghị với thần đèn.
- Nếu vậy, theo quyền lực của nhẫn, ta ra lệnh thần mang tôi đến chỗ lâu đài, bất cứ ở đâu trên quả đất, và đặt tôi dưới cửa sổ công chúa Badroulboudour.
Aladđin vừa dứt lời, thần nhẫn ôm lấy chàng đưa sang châu Phi giữa một bãi cỏ có lâu đài, không xạ một thành phố lớn và đặt chàng đứng dưới cửa sổ căn phòng công chúa. Mọi việc đó chỉ xảy ra trong giây lát.
Mặc dù đêm tối, Aladdin nhận rõ lâu đài của mình và phòng công chúa Badroulboudour. Đêm đã khuya, chàng lui ra một đoạn, đến ngồi dưới gốc một cây to. Chứa chan hy vọng nghĩ về hạnh phúc của mình nhờ một sự tình cờ, cậu cảm thấy bình tâm lại sau khi bị bắt, dẫn tới trước nhà vua và được trả tự do với nguy cơ mất mạng sống. Suy nghĩ một lúc về triển vọng tốt đẹp, qua, năm sáu ngày không ngủ, chàng không cưỡng đựợc giấc ngủ vì mỏi mệt, chàng thiếp đi dưới gốc cây.
Hôm sau bình minh vừa lên Aladdin thoải mái tỉnh giấc vì tiếng hót của chim trên cây chàng nằm ngủ đứới gốc và những cây rậm rạp quanh lâu đài. Chàng nhìn ngay về phía lâu đài tráng lệ, cảm thấy vui mừng không tả nổi vì sắp trở lại là ngựời chủ và một lần nữa có công chúa bên mình. Trong lúc chờ đợi, chàng suy nghĩ do đâu xảy ra tai hoạ và nhớ ra đã bỏ lại chiếc đèn ở nhà lúc đi săn. Điều làm cậu bối rối hơn là không hình dung ra ai là kẻ ghen tức với hạnh phúc của chàng. Trước hết chàng hiểu ra cậu và lâu đài đang ở châu Phi gợi lên trong trí chàng về lão phù thuỷ châu Phi, kẻ thù cố hữu của chàng.
Công chúa Badroulboudour từ khi bị bắt cóc đưa sang châu Phi ngủ dậy sớm hơn thường lệ. Cho đến nay nàng buộc phải mỗi ngày gặp lão phù thuỷ một lần nhưng mỗi lần nàng đối xử rất nghiêm khắc nên lão chưa dám liều ở lại Nàng mặc quần áo xong thì một thị nữ nhìn qua mành cửa, trông thấy Aladdin, chạy đi báo tin với chủ. Công chúa không thể tin vào điều ấy, chạy tới cửa sổ và nhận ra chồng mình. Nàng kéo mạnh cửa. Nghe tiếng động Aladdin ngẩng đầu lên, thấy công chúa và vui mừng khôn xiết chào nàng. Công chúa bảo:
- Để khỏi mất thì giờ, thị nữ sẽ mở cánh cửa bí mật chàng vào và lên đi.
Cánh cửa bí mật phía dưới phòng công chúa được mở ra, Aladdin lên phòng công chúa. Không thể tả hết nỗi vui mừng hai vợ chồng gặp lại nhau khi đã tưởng phải xa cách nhau vĩnh viễn. Họ ôm hôn nhau nhiều lần, thể hiện với nhau tình yêu và trìu mến sau cuộc chia cắt đáng buồn và bất ngờ của. họ. Sau những vồn vã thắm đượm nước mắt vui mừng, họ ngồi lại với nhau và Aladdin lên tiếng trước:
- Công chúa, trước khi kể mọi chuyện, ta khẩn cầu vì quyền lợi của chính nàng, của phụ hoàng kính mến và của riêng ta, nàng cho biết chiếc đèn cũ trước khi đi săn ta để ở gờ tường bây giờ ra sao rồi?
- Chà? Chàng thân yêu – Công chúa trả lời- Thiếp đã ngờ tai hoạ của chúng ta đến từ chiếc đèn và thiếp rất buồn lại chính do thiếp gây ra.
- Công chúa, nàng đừng nhận lỗi về mình, tất cả là do ta, đáng lẽ phải giữ gìn nó cẩn thận hớn. Chúng ta chỉ nên nghĩ cách sửa chữa sự mất mát ấy, muốn thế nàng làm ơn kể lại sự việc xảy ra thế nào và đèn mất vào tay ai?
Công chúa Badroulboudour kể lại việc đổi chiếc đèn cũ lấy đèn mới và đêm sau đó nàng nhận thấy lâu đài bị chuyển đi. Sáng dậy thấy mình ở một đất nước xa lạ này, được biết từ miệng tên phản trắc là đang ở châu Phi và bị mang tới do bùa phép.
- Công chúa – Aladdin ngắt lời – Nàng đã cho ta biết tên phản trắc. Hắn là kẻ xảo trá nhất thiên hạ nhưng không phải lúc kể lại với nàng nhiều hơn về sự độc địa của hắn. Chỉ xin nàng nói hắn đã làm gì với chiếc đèn và để nó ở đâu?
- Hắn bọc chiếc đèn rất kỹ bỏ trong người, em đã chứng kiến hắn lấy ra khoe với em như một kỳ công.
- Công chúa của ta, đừng giận vì ta yêu cầu nhiều điều làm nàng mệt mỏi. Những điều đó rất quan trọng đối với nàng và với ta, Để đi tới việc ta đặc biệt quan tâm, xin nàng nói rõ nàng thấy cách đối xử của một kẻ gian ác, xảo trá ấy hàng ngày ra sao?
- Từ khi thiếp đến đây, mỗi ngày hắn đến gặp thiếp một lần và chắc rằng không được thoả mãn vì những cuộc viếng thăm nên hắn ít quấy rối thiếp thường xuyên. Mọi câu chuyện hắn nói với thiếp nhằm làm mất lòng tin của thiếp đối với chàng và lấy hắn làm chồng, muốn làm cho thiếp không hy vọng gặp lại chàng, rằng chàng đã bị phụ hoàng chặt đầu chết rồi. Hắn còn giải thích thêm rằng chàng là một kẻ vô ơn, mọi của cải của chàng do hắn mà có và hang nghìn điều nữa nhưng em cứ mặc hắn nói. Do thiếp chỉ đáp lại bằng những kêu van khổ sở và nước mắt, hắn buộc phải rút lui không hài lòng như khi mới đến. Tuy thế thiếp chắc hắn có ý định chờ những đau khổ qua đi thiếp sẽ thay đổi tình cảm và cuối cùng nếu thiếp kiên trì chống đối hắn sẽ dùng sức mạnh. Bây giờ, chàng thân yêu, có mặt chàng em không còn lo ngại nữa.
- Công chúa – Aladdin ngắt lời nàng – Ta tin tưởng những lo ngại của nàng mất đi không vô ích, ta nghĩ đã tìm được cách giải thoát nàng khỏi tay kẻ thù.
Muốn thế ta phải ra phố, buổi trưa trở lại đây, sẽ trao đổi với nàng ý đồ như thế nào và nàng phải làm gì để góp phần thành công. Xin báo trước với nàng đừng ngạc nhlên khi ta mặc quần áo khác và nàng nhớ lệnh cho người chờ ta ở cửa bí mật, mở ngay khi ta gõ lần đầu.
Công chúa hứa sẽ có người chờ ở cửa và mở cửa ngay.
Khi Aladdin vẫn theo cánh cửa bí mật ấy ra ngoài, nhìn bốn phía thấy một nông dân đang đi về đường làng. Người nông dân đi ngược phía lâu đài và lúc đã xa, chàng bước vội cho kịp, đề nghị đổi bộ quần áo đang mặc chàng nói khéo nên người nông dân đồng ý.
Việc thay đổi quần áo tiến hành sau bụi rậm và chia tay nhau Aladdin đi vào thành phố. Qua cổng thành, chàng đến những đường phố sầm uất, vào một cửa hàng, hỏi mua một loại bột mê. Người bán nhìn vào quần áo nghĩ chàng nghèo, nói có loại ấy nhưng rất đắt. Aladdin biết ý nghĩ của chủ hàng, liền rút túi tiền ra để lộ vàng, bảo bán cho nửa đồng cân. Người bán gói bọt mê lại đưa cho chàng, đòi giá một đồng vàng. Aladdin cầm gói bột trả tiền, dừng lại trong thành phố một lát để ăn uống rồi trở lại lâu đài. Cửa bí mật mở ngay không làm chàng phải chờ, chàng bước thẳng lên phòng công chúa Badrouthoudour. Chàng nói với công chúa:
- Nàng đã thể hiện sự ghê tởm đối với kẻ cướp đoạt, có lẽ nàng sẵn sàng làm theo lời ta khuyên. Cho phép ta nói với nàng đã đến lúc cần giấu kín ý nghĩ mình, thậm chí phải dùng bạo lực nếu nàng muốn thoát khỏi sự hành hạ của kẻ thù và làm phụ vương hài lòng được gặp lại nàng. Nếu nghe theo lời ta, ngay từ bây giờ nàng hãy mặc bộ quần áo đẹp nhất và khi lão phù thuỷ đến thăm nàng nên tiếp đón hết sức tử tế, thật tự nhiên, nét mặt cởi mở, bởi nếu còn vài nét ưu tư hắn cũng nhận thấy hắn sẽ làm cho tất cả cùng biến mất đi vĩnh viễn. Trong lúc trò chuyện nàng cho hắn biết nàng sẽ cố gắng để quên ta đi hãy làm hắn tin chắc nàng thực lòng. Nàng mời hắn ở lại ăn khuya với nàng,và bảo nàng muốn uống loại rượu tốt nhất trong nước. Hắn nhất định sẽ đi kiếm rượu. Trong lúc chờ hắn trở lại, khi bữa ăn đã chuẩn bị xong, nàng bỏ loại bột này vào một chiếc cốc nàng vẫn thường dùng uống để riêng ra, báo trước với thị nữ phục vụ rượu chú ý đừng nhầm lẫn. Lão phù thuỷ trở lại và cùng ngồi vào bàn ăn, sau khi ăn uống một lúc, thấy thích hợp, nàng ra hiệu đưa cốc rượu có bột ra và đổi cốc của nàng với cốc của hắn. Hắn sẽ thấy tình cảm ưu ái của nàng quá lớn nên không từ chối, sẽ uống cạn cốc rượu và ngã vật ra ngay. Nếu nàng ghê tởm uống vào cốc của hắn thì chỉ giả vờ uống, nàng đừng ngại. Tác động của loại bột rất nhanh chóng, hắn không đủ thì giờ nghĩ xem nàng có uống hay không uống.
Aladdin nói xong, công chúa bảo:
- Thiếp thú nhận với chàng làm như thế đối với lão phù thuỷ là em đã dùng bạo lực. Nhưng đối với một kẻ thù độc ác thì có giải pháp nào ta không làm được? Thlếp sẽ làm như chàng khuyên vì sự yên bình của thiếp cũng như của chàng.
Dặn đò công chúa xong, Aladdin tạm biệt nàng ra vùng gần lâu đài chờ đến tối lại gần cánh cửa bí mật. Công chúa Bađdoulboudour buồn khôn nguôi không chỉ vì phải xa Aladdin, người chồng nàng đã yêu thực sự mà còn vì phụ hoàng thân yêu vốn yêu thương trìu mến nàng hết mực, từ lúc xa cách đau đớn này nàng không chăm sóc được. Có thể nói nàng đã quên cả việc trang điểm theo bản tính. Đặc biệt khi lão phù thuỷ đến gặp nàng lần đầu, được thị nữ cho biết chính hắn là người rao đổi chiếc đèn, nàng ghê sợ về sự lừa lọc nguy hại ấy. Cơ hội trả thù đáng giá này nàng chưa từng đám hy vọng khiến nàng càng quyết tâm nghe theo lời Aladdin. Nên khi chàng đã rút đi, nàng tắm rửa bảo thị nữ mặc quần áo cho nàng, chọn bộ sang trọng và phù hợp nhất, kèm với thắt lưng là chiếc vòng mười ba viên ngọc trai, mỗi bên cân đối sáu viên, viên giữa to nhất và quý nhất mà những hoàng hậu, công nương sung sướng có được một bộ đầy đủ độ lớn chỉ bằng hai viên nhỏ nhất của công chúa. Những vòng tay lẫn lộn kim cương và hồng ngọc phù hợp tuyệt vời với chiếc thắt lưng và chiếc vòng giàu có.
Mặc quần áo đầy đủ xong, công chúa Badroulboudour soi gương bảo các thị nữ ngắm sửa sang và khi đã thấy không còn thiếu vẻ đẹp nào có thể ìàm say mê lão phù thuỷ châu Phi, nàng ngồi trên ghế xô-pha chờ lão tới.
Lão phù thuỷ không quên đến theo giờ thường lệ. Khi công chúa thấy lão bước vào phòng khách hai mươi bốn cửa sổ, nơi nàng đang ngồi chờ, nàng liền đứng dậy với mọi vẻ đẹp và duyên dáng, giơ tay chỉ chỗ danh dự và chờ lão cùng ngồi một lần, cử chỉ giao tiếp đặc biệt chưa bao giờ nàng đối xử với lão.
Lão phù thuỷ choáng ngợp về ánh mắt đẹp của công chúa hơn là màu sắc lóng lánh của đá quý nàng trang điểm, và hết sức ngạc nhiên. Phong thái oai nghiêm và nét duyên dáng nàng đón tiếp trái ngược với những lần đón tiếp từ trước tới nay làm lão bối rối. Lúc đầu lão muốn ngồi trên thành ghế xô-phạ nhưng thấy công chúa không muốn ngồi vào chỗ của mình nếu lão không ngồi vào chỗ nàng mời nên lão vâng theo.