Thứ Ba, 20 tháng 8, 2013

Truyện cổ tích: Nghìn lẻ một đêm

Truyện cổ tích: Nghìn lẻ một đêm là tập truyện dân gian đồ sộ và nổi tiếng của nhân dân Ả Rập, có nguồn gốc lâu đời trên xứ sở của các hoàng đế Arap cổ đại và được bổ sung qua nhiều thế kỷ bằng kho tàng truyện cổ dân gian các nước trong hệ ngôn ngữ Ấn-Âu, được lưu truyền rộng rãi ở Iran, Iraq, Ai Cập, Ethiopia,… sau đó phổ biến khắp Trung Đông. Không thể xác định được ai là tác giả của những truyện được kể trong Nghìn lẻ một đêm, vì đây chỉ là sự góp nhặt của những truyện tình, truyện phiêu lưu hay truyện thần thoại hy lạp mà nhiều người truyền tụng, được nhiều người kể chuyện trau truốt, tuyển lựa những cốt truyện hấp dẫn nhất và truyền bá qua nhiều thế kỷ trong dân gian. Rất có thể vào năm 1450, một nhà kể chuyện chuyên nghiệp xứ Ba Tư đã chép lại những truyện này và sắp đặt dưới hình thức mà chúng ta thấy ngày nay. Cuốn truyện lần đầu tiên được công bố ở châu Âu trong những năm 1704-1709 qua bản dịch tiếng Pháp 12 tập của học giả Antoine Galland. Chính nhờ bản dịch này mà bộ truyện nhanh chóng được dịch ra nhiều thứ tiếng phổ biến khắp thế giới, làm say mê không biết bao nhiêu thế hệ.
Tóm tắt
Kho tàng truyện cổ vô cùng đa dạng của Nghìn lẻ một đêm được kết nối xoay quanh một trục đơn giản: Xưa kia ở miền Đông A-rập, thời Sassanid có một vị vua Ba Tư Shahriyar. Vị vua ngự trị trên một hòn đảo không rõ tên “ở giữa Ấn Độ và Trung Quốc” (trong các bản dịch tiếng Ả Rập hiện nay thì ông ta là vua của Ấn Độ và Trung Quốc). Vì hoàng hậu ngoại tình nên đâm ra chán ghét tất cả đàn bà, tính nết trở nên hung bạo. Để thỏa cơn thịnh nộ điên loạn, cứ mỗi ngày ông ta cưới một cô gái và sau một đêm mặn nồng lại sai lính đem giết (trong một số bản: ba đêm một lần). Thấy đất nước lâm nguy,Sheherazade xin cha cho mình được một đêm hưởng ân sủng của hoàng thượng. Viên tể tướng rất đau lòng khi thấy con mình như vậy vì ông biết sau đêm đó nàng sẽ chết. Nhưng trước sự quyết tâm của con ông đành phải đem con dâng cho vua Shahriyar. Là cô gái thông minh, tài trí lại giàu nghị lực, nên sau nàng đã tìm được cách để thoát khỏi cái chết. Nàng cùng với sự giúp đỡ của em gái nàng là Dinarzade, nàng nhờ em đánh thức mình dậy khi trời sắp sáng và yêu cầu nàng kể chuyện. Những câu chuyện được sắp xếp khéo léo để đúng khi mặt trời mọc là lúc hấp dẫn nhất, nàng kín đáo dừng lại khi chuyện chưa chấm dứt khiến vua còn nóng lòng muốn nghe đoạn tiếp, không thể ra lệnh xử tử nàng.
Trong suốt một nghìn lẻ một đêm, nàng Sheherazade đã liên tục kể những chuyện về tình yêu, chiến tranh và pháp thuật, về những vị vua cũng như bọn ăn mày, về những xứ sở mà kim cương nhiều hơn đá sỏi, về những cô gái đẹp, về cả những mưu toan diễn ra trong các ngõ hẻm hay các khu chợ tại các thành phố phương Đông. Hai nàng cũng kể về những thị trấn, sa mạc, hải đảo xa xôi, nơi các vị phù thủy sử dụng pháp thuật, về các loài ngựa biết bay, chó biết nói, người hóa cá, cá lớn hơn cá voi, chim khổng lồ. Nàng kể về những cặp tình nhân trong các túp lều tồi tàn, họ có thể là người gan dạ hoặc hèn nhát, nhưng tất cả đều đa tình và biết hy sinh vì người yêu. Bối cảnh của các chuyện của nàng ở phương Đông, phần lớn xoay quanh các thành phố huyền thoại Bagdad, Cairo và Damascus. Hàng ngàn đêm trôi qua, cuối cùng nhà vua bị cảm hóa, tình yêu cuộc sống và con người trỗi dậy khiến ông ta đã quên khuấy việc giết người. Cảm phục nàng Sheherazade, vua đã bãi bỏ lệnh bắt con gái để giết một cách tàn nhẫn và đồng ý cưới nàng làm vợ bằng một đám cưới linh đình, sau đó cùng nhau sống hạnh phúc đến bạc đầu và họ có với nhau ba người con trai.

nang Sheherazade
Ý nghĩa
Cũng như truyện dân gian của các nước khác, những câu chuyện trong Nghìn lẻ một đêm phản ánh nguyện vọng và ước mơ của quần chúng nhân dân trong xã hội bị áp bức, đè nén. Họ luôn luôn mong muốn được sống trong cảnh thái bình yên vui, được gặp nhiều may mắn, hạnh phúc ấm no. Khát vọng này thể hiện qua những truyện nổi tiếng nhất của tập truyện, chẳng hạn truyện Aladdin và cây đèn thần kể về chàng trai Aladdin, con của một người thợ may Trung Hoa. Bị một con phù thủy dẫn xuống hang ngầm, tại đây chàng tìm thấy một cây đèn, trong đó có nhốt vị thần có thể biến mọi ước mơ thành hiện thực, nhờ đó chàng trở nên giàu có và được cưới công chúa Badroulboudour. Nhiều truyện phản ánh bản chất tốt đẹp của nhân dân lao động cần cù, chăm chỉ, kiên cường dũng cảm và thông minh tài trí, giàu lòng thương người đồng thời vạch trần bản chất tàn ác của bọn vua chúa, quan lại, phú thương, phù thủy,… thể hiện chân lý thiện thắng ác, chính thắng tà, ở hiền gặp lành, và mang ý nghĩa giáo dục sâu sắc. Cuộc hành trình trên mặt biển của thủy thủ Sinbad là một ví dụ, với những cuộc phiêu lưu kỳ thú của chàng Sinbad lên một hòn đảo nhưng thực chất là một con cá khổng lồ, lạc đến một thung lũng đầy đá quý và chàng đã mưu trí trốn ra được, đâm mù mắt gã khổng lồ ăn thịt người và giết chết chúa tể của biển cả. Truyện Ali Baba và 40 tên cướp ca ngợi tài trí thông minh và dũng cảm của cô gái Morgiana đã cứu sống gia đình bác tiều phu Ali Baba khỏi những tên cướp. Câu chuyện Người câu cá với vị thần kể về một ngư phủ vớt chiếc lọ có nhốt một vị thần, nhờ tài trí mà gã ta đã khiến vị thần khuất phục và trung thành phục vụ cho mình. Với sự giúp đỡ của vị thần, gã đã cứu hoàng tử khỏi pháp thuật và được tưởng thưởng xứng đáng.
Với hàng trăm câu chuyện hoàn chỉnh, bao gồm truyện lịch sử, truyện tình, bi kịch, hài kịch, thơ, truyện hài và truyền thuyết Hồi giáo cấu thành tác phẩm, Nghìn lẻ một đêm có một giá trị hết sức to lớn trong việc phản ánh một thế giới muôn mặt trong đời sống hiện thực xã hội Arap thời Trung cổ, thông qua một óc tưởng tượng cực kỳ phong phú, chủ đề vô cùng khác lạ, nhân vật đủ mọi loại vẻ, với những khung cảnh vừa rộng lớn vừa luôn luôn thay đổi. Về nghệ thuật, Nghìn lẻ một đêm hết sức hoàn chỉnh về kết cấu, bất ngờ trong việc dẫn dắt mạch truyện, phức tạp mà rất chặt chẽ trong các tình tiết và cũng rất điêu luyện trong việc sử dụng ngôn ngữ, mặc dù có một số truyện qua tay nhiều người, được nhiều thế hệ ghi chép nên đã ít nhiều bị pha tạp hoặc bị hiện đại hóa. Với giá trị về nhiều mặt như vậy, từ khi ra đời đến nay, Nghìn lẻ một đêm đã trở thành tài sản văn hóa chung của nhân loại, có ảnh hưởng sâu sắc từ Đông sang Tây. Nhiều người đã dùng những câu chuyện trong tác phẩm để làm đề tài sáng tác cho những hình thức nghệ thuật khác như phim, kịch, vũ ba-lê, ca vũ kịch,…

Truyện cổ tích: Nghìn lẻ một đêm tại chuyên mục Truyện Cổ Tích trên website: doctruyen24h.mobi

Thứ Sáu, 16 tháng 8, 2013

Truyện cổ tích thế giới: Sự tích ba lá bùa

 Truyện cổ tích thế giới: Sự tích ba lá bùa

Ngày xửa ngày xưa, có một chú tiểu nọ sống ở một ngôi chùa trên núi. Chú tiểu rất tinh nghịch và thường hay bày trò phá bỉnh. Cậu rất không vâng lời và hay gây rắc rối cho sư phụ như việc đuổi theo những chú thỏ làm chúng chạy loạn xạ khắp nơi.
Vào một ngày mùa thu, khi những chiếc lá đã khoát lên mình bộ quần áo mới, chú tiểu nhỏ thấy cây dẻ trên núi đã bắt đầu đơm trái. Những hạt dẻ trông thật là ngon. Chú bèn xin với sư phụ:
“Sư phụ, con muốn ăn những hạt dẻ ở ngọn núi đằng kia. Con có thể đi và hái về một ít không?”
Sanmai-Ofuda
“Không được, người ta nói có một mụ phù thủy đang sống trên đó. Con sẽ bị bà ta ăn thịt mất.” – sư phụ đáp.
“Ôi, chắc gì đó là sự thật hả sư phụ. Con tin chắc là do ai đó thêu dệt nên thôi. Làm ơn cho con đi đi mà sư phụ” – chú tiểu nài nỉ.
Nhà sư nhìn chú tiểu và lắc đầu ngao ngán, bởi ông biết là dù gì đi nữa nó cũng sẽ ko nghe lời ông. Nhà sư thầm nghĩ “Nên để cho một đứa trẻ nghịch ngợm này biết sợ một lần” và quay sang chú tiểu, ông nói: “Được rồi, ta sẽ cho con đi. Nhưng nếu con gặp phải mụ phù thủy, hãy sử dụng chúng”. Nhà sư nói và trao cho chú tiểu ba lá bùa may mắn. Chú tiểu nhận lấy và ngay lập tức đi thẳng lên núi.
Lên đến núi, ở đó có rất nhiều hạt dẻ đã chín, quả đúng như cậu nghĩ. Chú tiểu mải mê nhặt những trái chín mà quên cả thời gian, không để í là mặt trời đã xuống núi từ bao giờ, đến lúc nhận ra thì xung quanh đã bị bao trùm bởi bóng tối. Cậu bắt đầu lo lắng: “Buổi tối ở đây đáng sợ quá… Lỡ có mụ phù thủy thiệt thì biết phải làm sao…” Vừa nghĩ đến đó thì bất chợt từ đằng sau, một giọng nói vang lên:
“Ồ ồ, chào cậu bé”
Nghĩ là mụ phù thủy, chú tiểu sợ hãi vừa nhảy vừa la hét. Nhưng khi quay lại cậu lại thấy một bà lão trông rất chi là phúc hậu. Bà lão nói:
“Cháu đang nhặt hạt dẻ à. Sao cháu không cùng ta về nhà, ta sẽ nấu cho cháu ăn”
Vừa mừng lại vừa đói, chú tiểu theo bà lão về nhà. Cậu ăn hạt dẻ đến no căng cả bụng và bắt đầu cảm thấy buồn ngủ, hai mắt lim dim rồi ngủ lúc nào không hay. Đến nửa đêm thì chú tiểu giật mình thức dậy nhưng không thấy bà lão đâu cả. Cậu nghe thấy có những tiếng động lạ phát ra từ phòng bên cạnh. Tò mò, cậu ghé mắt nhìn trộm thì thấy một mụ phù thủy thật đáng sợ đang mài những con dao sắc nhọn.
“Aaaaaaaaaaaaaaaá” – cậu bé thét lên sợ hãi.
Mụ phù thủy bước ra, trừng mắt về phía cậu.
“Ngươi đã thấy rồi sao nhóc?” – mụ phù thủy nói – “Phải, ta chính là phù thủy của ngọn núi này. Và bây giờ ta sẽ ăn thịt nhà ngươi” – mụ vừa dứt câu thì lập tức với tay cố tóm lấy chú tiểu.
Hoảng hốt, chú tiểu lắp bắp nói: “Khoan khoan… trước tiên… cho cháu đi giải quyết nỗi buồn cái đã, không thì sẽ ướt cả ra đây đó”
“Được thôi, ta cho phép. Nhưng ta phải trói ngươi lại rồi đi theo để phòng ngươi bỏ trốn”
Chú tiểu bị trói, bước vào nhà xí. Mụ phù thủy thì đứng canh ở ngoài.
“Xong chưa? Làm gì mà lâu dữ bây” – đợi lâu, mụ phù thủy cáu.
“Đợi tí, cháu sắp xong rồi!” – chú tiểu nói với ra, nhưng cậu biết không thể tiếp tục câu giờ mãi được. “Phải làm sao bây giờ” – cậu thầm nghĩ “A, phải rồi, mình sẽ sử dụng mấy lá bùa mà sư phụ cho”. Cậu bé rút một lá bùa và nói: “Bùa ơi bùa, hãy giả làm ta để trả lời mụ phù thủy nghen”. Và cậu trèo theo đường cửa sổ, trốn ra ngoài rồi chạy về hướng ngôi chùa.
“Nhóc con, xong chưa vậy? Ngươi lề mề quá” – mụ phù thủy vẫn quát tháo bên ngoài vì tưởng rằng cậu bé vẫn ở trong kia.
Bên trong vọng ra tiếng trả lời: “Sắp xong rồi, chờ cháu một xíu nữa thui”
Nhưng rồi mụ phù thủy bắt đầu nghi ngờ, vì không cần biết mụ hỏi gì nhưng câu trả lời của cậu bé vẫn y chang nhau. Mụ tung cửa xông vào và quả nhiên cậu bé đã biến mất.
“Đồ… Dám lừa bà. Bà sẽ cho mày biết tay” . Nói rồi mụ phù thủy giận dữ đuổi theo cậu bé.
“Cố lên, sắp về tới rồi” – chú tiểu vừa chạy vừa không ngừng tự trấn an mình. Nhưng đến khi quay đầu lại, cậu thấy mụ phù thủy đã đuổi đến sau lưng.
“Đứng lại đó nhóc con, không thì ta xơi tái ngươi ngay lập tức” – mụ phù thủy lúc này nhìn còn đáng sợ hơn trước. truyện cổ tích
“Tiêu rồi, nếu mụ ta mà bắt được mình thì chết chắc” – chú tiểu rút tiếp lá bùa thứ hai và ra lệnh “Bùa ơi bùa, hãy biến thành dòng sông ngăn mụ phù thủy lại!”
Cậu bé vừa dứt lời thì một con sông lớn hiện ra, nuốt chửng mụ phù thủy.
“Chết đuối chắc lun nà” – chú tiểu vui mừng nghĩ nhưng không ngờ, mụ phù thủy với phép thuật ghê gớm đã một hơi uống cạn nước dòng sông và rồi lại đuổi theo chú tiểu.
“Thôi chết” – chú tiểu rút lá bùa cuối cùng – “Bùa ơi bùa, hãy biến thành biển lửa ngăn mụ phù thủy lại”.
Liền sau đó, một biển lửa bừng bừng xuất hiện bao vây lấy mụ phù thủy độc ác. Nhưng không ngờ, mụ phù thủy rùng mình một cái và phun hết số nước mà mụ vừa uống vào khi nãy, dập tắt biển lửa trong nháy mắt.
“Thế là hết. Bà ta sẽ tóm được mình mất thôi” – chú tiểu nghĩ, nhưng may làm sao ngay lúc ấy cậu đã vào được trong chùa. cổ tích
“Sư phụ ơi, cứu con với. Mụ phù thủy đuổi đến đây rồi. Mụ ta đang ở ngoài cửa kia kìa”
Trong khi chú tiểu hốt hoảng bao nhiêu thì nhà sư lại thản nhiên bấy nhiêu:
“Vậy là con đã gặp được mụ phù thủy rồi đúng không? Con đã được một bài học rồi đó”
Chú tiểu lúc này mới nhận ra được lỗi lầm của mình và cầu xin sư phụ tha lỗi:
“Con xin lỗi sư phụ, từ bây giờ con hứa sẽ ngoan ngoãn và nghe lời sư phụ”
Thấy đệ tử đã biết sai, nhà sư gật đầu rồi bảo cậu trốn vào trong một chum lớn phía sau. Vừa lúc đó thì mụ phù thủy tung cửa bước vào:
“Này lão hòa thượng, có thấy một thằng nhóc vừa chạy vào đây không? Lập tức mang nó ra đây nhanh!”
Nhà sư vẫn thản nhiên: “Ồ, thí chủ đang nói gì thế? Bần tăng ngồi đây ăn bánh gạo từ nãy giờ, có thấy thằng bé nào đâu?”
Mù phù thủy tức giận quát lên:
“Ngươi đừng có mà làm bộ làm tịch. Ta sẽ nuốt chửng ngươi nếu còn không chịu giao thằng nhóc ra.”
“Thôi được” – nhà sư ôn tồn nói – “Nhưng trước đó, hãy thi xem trong chúng ta, ai có thể biến thành nhiều hình dạng hơn. Nếu thí chủ thắng, bần tăng sẽ làm theo như í thí chủ. Còn bây giờ, thí chủ có thể biến thành thứ mà bần tăng đề nghị không?” – nhà sư thách thức.
“Thật là nực cười!” – mụ phù thủy trả lời đầy tự tin – “Ta có thể biến thành tất cả mọi thứ! Cứ việc nói những gì ngươi muốn!”
Nhìn vẻ kiêu ngạo của mụ phù thủy, nhà sư từ tốn nói: “Thí chủ có thể biến thành cao lớn, đụng được đến trần nhà không?”
Nhà sư vừa dứt câu, mụ phù thủy liền biến một cái, người cao lớn chạm đến trần nhà chẳng khó khăn gì.
“Nhưng bần tăng cược là thí chủ ko thể biến mình to lớn như quả núi kia được”
“Chuyện nhỏ như con thỏ” – mụ phù thủy trả lời và lập tức biến thành to lớn như quả núi.
Nhà sư gật gù thán phục rồi nói tiếp: “Thí chủ quả là tài giỏi, có thể biến to như quả núi được. Nhưng, thí chủ có thể biến nhỏ như hạt đậu được ko?”
Mụ phù thủy cười ngạo nghễ: “Đơn giản vậy thôi sao? Ngươi xem đây!”. Nói rồi mụ biến nhỏ thành hạt đậu thật, còn nhỏ hơn cả ngón tay út của nhà sư nữa.
“Ồ, thật tuyệt vời. Còn bây giờ đến lượt bần tăng” – nhà sư nói rồi bất ngờ bốc hạt đậu – mụ phù thủy – nhét vào giữa cái bánh gạo rồi ùm một phát và nuốt luôn vào trong bụng.
Thế là từ đó, ngọn núi trở nên yên bình xinh đẹp hơn vì không còn bóng dáng mụ phù thủy. Chú tiểu nhỏ cũng trở nên chăm ngoan hơn và nhất nhất nghe theo lời sư phụ.

Thứ Năm, 15 tháng 8, 2013

Truyện cổ tích Việt Nam: Lộc Giác Chân Nhân

Truyện cổ tích Việt Nam: Lôc Giác Chân Nhân

Ngày xưa, ở đất Cao Bằng, có một người tiều phu mộc mạc hiền lành và hiếu thảo. Anh có một bà mẹ già hay đau ốm. Thầy thuốc bảo là cần có sữa nai tẩm bổ, mới mong chữa lành bệnh cho mẹ. Anh không quản ngại khó khăn, mỗi ngày vào rừng quyết tâm đi tìm kiếm sữa nai về cho mẹ, nhưng rất khó vì vừa thấy bóng người, nai đã bỏ chạy mất rồi.
tieu-phu
Không lấy được sữa nai, người tiều phu buồn bực, không dám về nhà. Anh ngồi giữa rừng ôm mặt khóc. Bỗng nhiên, thấy có một ông lão chống gậy đến bảo rằng: “Nếu con muốn có sữa nai thì phải mang lốt nai, mới đến gần loài nai được”. Rồi ông lão trao cho anh tiều phu một bộ da nai khoác vào người.
Anh làm theo và quả nhiên, sau đó, anh lại gần được các con nai cái, vắt được nhiều sữa đem về nhà chữa bệnh cho mẹ già. Một hôm, ông lão lại hiện ra, ngỏ lời khen lòng hiếu thảo của anh, rồi truyền cho anh các phép đạo thần tiên. Anh học thuộc lòng, không nói cho ai hay biết. Sau khi mẹ già qua đời, anh liền bỏ đi lên núi biền biệt, không trở về nhà nữa.
Sau đó khá lâu, một hôm, có một người con của ông tiều phu vào núi lấy củi. Anh bỗng gặp một con nai nói được tiếng người. Nai bảo: “Cha đây. Cha đã hoá thành nai rồi, không thể trở lại lốt người được nữa. Cha cho con cái gạc (sừng) đây, con hãy buộc dây mà kéo về. Đến chỗ nào mà gạc vướng, không đi được nữa, thì con hãy lấy chỗ đất ấy mà khai khẩn làm ăn, về sau sẽ khá”.
Nói xong, con nai húc đầu vào thân cây cho rụng gạc ra. Rồi nai biến mất vào rừng sâu. Người con trai vâng lời, làm theo nai dặn. Quả nhiên, về sau được sung túc. Người đời khi biết chuyện, đã gọi người tiều phu hoá nai là Lộc Giác Chân Nhân, cho rằng ông đã tu luyện được thành tiên.

Lộc Giác Chân Nhân tại chuyên mục Truyện Cổ Tích trên website: doctruyen24h.mobi

Thứ Ba, 30 tháng 7, 2013

Ba chàng dũng sĩ

(Truyện cổ dân tộc người BaNa)

Ở làng kia, có một người đàn bà rất chăm làm. Từ mờ sáng, khi chim Mơ lang vừa cất tiếng hót thì đã thấy bà rời làng lên nương rồi. Bà cặm cụi làm việc cho đến khi ngôi sao Bắc đẩu lấp lánh trên trời cao mới lại trở về làng.

Một hôm, đang làm rẫy, bà bỗng thấy trong người choáng váng, khó chịu, cổ họng khô cháy như lửa đốt. Bà vội tìm đến chiếc chòi giữa rẫy, nhấc ống nước định uống thì thấy trong ống chẳng còn giọt nước nào. Cơn khát ngày càng hành hạ bà. Bà đảo mắt nhìn quanh để tìm nước uống, chợt thấy xa xa từ khe núi có một khe nước đang rỏ giọt. Bà mừng rỡ vội vã rảo cẳng chạy tới. Đó là một quả núi giống hình một người đành ông to lớn, đang cầm chà gạc(*)
ngó trời. Từ trên đỉnh đầu hình người chảy ra những giọt nước trong vắt, mát lạnh. Bà ngửa cổ vừa uống ba ngụm đã thấy cơn khát dịu ngay, cổ họng còn đọng mãi vị thơm ngọt của dòng nước lạ.

Từ hôm đó, bà thấy trong người khang khác và bụng ngày một to dần. Bà đã thụ thai.

Nhưng đã chín tháng mười ngày rồi mà bà vẫn chưa đẻ. Một năm, rồi hai năm, ngày sinh vẫn chưa tới. Cho mãi đến năm thứ ba, vào một ngày mặt trăng và mặt trời gặp nhau (nhật thực) tỏa ánh sáng vàng dìu dịu, bà mẹ mới trở dạ. Bà sinh được ba đứa con trai bụ bẫm, kháu khỉnh và giống nhau như lột.

Ngày tháng trôi qua, ba đứa trẻ lớn dần lên. Từ đấy, núi rừng có thêm ba chàng trai khỏe mạnh. Cánh tay họ cứng như sắt có thể bẻ gãy cây to như ngắt ngọn cỏ. Cặp chân họ chạy nhanh như gió, một bước nhảy vượt băng một cánh rừng. Mắt họ sáng, nhìn xa hơn mắt chim ưng.

Thấy các con đã khôn lớn, một hôm bà mẹ bảo họ:

- Đất trời mình còn rộng lắm. Các con hãy chia nhau đi các ngả mà làm ăn. Lâu lâu, các con hãy về thăm mẹ nhé!

Ba chàng trai vâng lời, từ biệt mẹ lên đường.

Người em út theo hướng mặt trời mọc mà đi. Đường đi mỗi ngày một xuống thấp và chẳng bao lâu đồng bằng bát ngát, biển khơi mênh mông sóng nước hiện ra. Người em út ưng miền đất đẹp này lắm và chọn nơi ấy làm chốn ở của mình. Từ đó, ngày tắm nước bể trong xanh, đêm nằm dài trên cát mịn, da dẻ chàng thay đổi dần, trắng trẻo như cục bột. Người ta gọi chàng là Ngọc.

Người em thứ hai cứ theo hướng mặt trời lặn mà đi. Đất dưới chân chàng ngày một cao dần lên, rừng rậm trùng điệp hiện ra và núi non hùng vĩ nhô lên như chào đón chàng. Gặp một khe suối nước chảy óng ánh như màu đồng hun, chàng cởi áo lội qua bờ bên kia. Dòng nước kì lạ ấy đã làm cho người em thứ hai khi từ khe nước bước lên đổi hẳn màu da, trở thành ngăm ngăm đen hệt như màu nước. Thấy đất màu mỡ, chàng bèn dừng lại và dựng trại làm ăn. Từ đó người ta gọi chàng là chàng Lèo.

Còn người anh cả ở giữ quê hương. Chàng dựng lên một chiếc nhà rông cao nhất trời, mái nhà cong vút chấm tới mây, cột nhà dựng san sát như cây rừng. Chàng sống ở đó, trông núi rừng cho suối đánh đàn, cho hoa nhảy múa, cho muôn thú và gió lộng hát ca…

Nhưng bỗng một hôm, một con Xà tinh không biết từ đâu hiện ra, mình nó lớn bằng cả một dãy núi. Nó có cánh để bay vút lên trời, lại có vây để lặn sâu xuống nước. Nhưng lợi hại nhất là ba viên ngọc ước của họ nhà trời mà Xà tinh đã ăn cắp được, đem về cất giấu trong chiếc túi tròn, đeo ở nách bên phải của nó. Hòn ngọc thứ nhất màu xanh biếc, khi giơ ra thì lập tức giông bão nổi lên, gió gào thét điên cuồng, thổi bật đi cả từng khu rừng một. Hòn ngọc thứ hai màu trắng nhạt, cầm đến nó thì lập tức sóng nước cuồn cuộn trào dâng, cuốn trôi băng cả hàng chục làng. Hòn ngọc thứ ba màu đỏ chói, khi tung lên thì khói lửa rừng rực bốc lên, thiêu rụi hết mọi vật. Xà tinh dùng ba viên ngọc ước này để tàn phá tất cả những miền mà nó đi qua.

Một hôm, Xà tinh mò đến quê hương của ba chàng trai. Nó đi đến đâu, cây rừng nghiêng ngả, gió rú ào ào, khói mây bay mù mịt đến đấy. Người anh cả thấy có chuyện lạ, vội từ trong nhà rông bước ra, một tay cầm chiếc khiên đính lục lạc đồng, một tay cầm con dao nhọn, sắc như nước.

Trông thấy vẻ hùng dũng của người anh cả, Xà tinh cũng có ý chờn. Nó thò tay vào túi, bốc viên ngọc xanh biếc ra, tức thì dông bão ầm ầm nổi lên, cây bật rễ, đá núi bay rào rào. Thấy Xà tinh bỗng dưng tác oai, tác quái, tàn phá buôn làng quê hương mình, người anh cả nổi giận lao người tới trước mặt nó, vung mạnh tay khiên. Chiếc khiên quay vun vút làm thành một trận gió mạnh, xô bạt cơn dông của Xà tinh đi. Sau nửa ngày đánh nhau kịch liệt, Xà tinh đuối sức phải thu ngay viên ngọc xanh lại. Nó tức giận gầm lên một tiếng vang trời rồi nhấc viên ngọc màu trắng nhạt ra. Lập tức cả một bể nước ậo tới, phủ kín núi rừng. Lợn lòi, chồn, rắn nổi lềnh bềnh trên mặt nước. Trước sức mạnh ghê gớm của nước lụt, người anh cả thấy hết phương chống cự. Chàng chạy vội lên ngọn núi cao nhất, quờ cây khô, dồn lá héo, chất thành đống lớn, châm lửa đốt lên. Ngày trước, lúc chia tay lên đường, ba anh em đã hẹn ước với nhau rằng bao giờ có giặc hay gặp nguy nan, người anh cả sẽ dùng ánh lửa đốt trên núi cao để báo hiệu gọi các em về, một ngọn là hiệu gọi em út, hai ngọn là gọi em thứ hai.

Thấy một ngọn lửa nơi quê mẹ bùng cháy, chàng Ngọc lúc đầu ngỡ là ánh sáng mặt trời rọi lên, chẳng để ý tới. Nhưng ánh lửa mỗi lúc một cháy to, ngọn lửa lắc lư như vẫy gọi. Biết là lửa của anh cả gọi mình, chàng Ngọc bèn chạy một mạch như bay về quê hương.

Tới làng cũ, nhìn thấy núi rừng tiêu điều, xơ xác, chàng Ngọc vô cùng căm giận, ngồi bên suối ngày đêm nghĩ cách trừ Xà tinh.

Một buổi sáng, chàng Ngọc từ biệt anh cả đi thẳng vào sào huyệt của yêu quái. Thấy chàng trai trắng trẻo, Xà tinh gầm gừ rồi quát lớn:

- Hỡi con thỏ trắng kia! Mày mang da đến đây cho tao lột phải không?

Chàng Ngọc dũng cảm thét vào mặt nó:

- Ta đến tìm mày để hỏi tội đây. Thần nước ở quê ta, ta còn trị được nữa là vũng nước chân trâu hôi thối của mày!

Xà tinh giận lắm. Hắn bốc ngay viên ngọc trắng nhạt ra. Lập tức sóng ngàn, nước cả hiện ra trắng xóa một vùng. Nhanh như chớp, chàng Ngọc co mạnh tay, dẫm mạnh chân xuống đất. Tức thì, từ trong lòng đất nổi lên một bức thành dài dằng dặc. Lớp thành đất vững chắc như thép nhô cao lên mãi, vây chặt lấy bể nước rồi khép dần lại. Dòng nước hung dữ cố sức phá vỡ bức thành để tràn ra ngoài nhưng không nổi. Nước ngày một cạn dần đi. Xà tinh yếu thế vội thu viên ngọc trắng lại và giở viên ngọc đỏ chói ra. Lập tức khói bốc lên mù trời, lửa cháy rừng rực, cây xanh cháy thành than. Nước suối sôi lên ùng ục. Người em út không trị được nạn lửa ghê gớm ấy, đành phải chạy về vùng biển.

Thấy nguy khốn, người anh cả lại lên núi cao, chất hai đống lửa lớn, gọi người em thứ hai về cứu. Trông thấy hiệu lửa, chàng Lèo liền nhắm hướng lửa mà chạy như gió, chẳng quản ngày đêm. Đến quê mẹ, chàng chạy thẳng đến hang Xà tinh và gặp nó đang mài vuốt trước cửa hang. Chẳng nói, chằng rằng, chàng Lèo nhằm giữa mặt nó phóng một ngọn lao mạnh như sấm sét. Biết dòng họ dũng sĩ đã lại đến, Xà tinh liền tìm cách thử tài. Lùi lại tránh mũi lao, nó bốc một nắm lá, niệm thần chú rồi tung lên trời. Lập tức một bầy ong vò vẽ hiện ra vù vù xông tới. Chàng Lèo bình tĩnh tháo bông hoa cài trên đầu cắm nhẹ trên đất. Tức thì khắp một cánh rừng, những bông hoa muôn sắc tỏa ra rồi dệt lại thành một tấm thảm đẹp tuyệt vời. Đàn ong bén mùi mật hoa, sà cả xuống bám đen nghịt. Chúng chui vào bông hoa để hút mật. Bỗng nhiên bông hoa rùng mình khép luôn cánh lại, nhốt chặt đàn ong ma quái ở bên trong.

Thấy phép thuật của mình đã bị hại, Xà tinh gầm lên, bốc viên ngọc đỏ chói ra, thét lớn:

- Đến ngọc này thì mày cũng sẽ phải chạy như hai tên nhãi trước thôi!

Thấy ngọn lửa ngùn ngụt bốc cao, cháy rừng rực, dữ tợn, chàng Lèo liền cởi ống nước phép đeo trên lưng, trút xuống đất. Những tia nước mát rượi bắn tung ra rồi bỗng dâng cao thành những suối nước khổng lồ bao lấy lửa. Chẳng bao lâu, lửa của Xà tinh đã bị các suối nước làm tắt ngấm hết. Bị thua, Xà tinh càng điên cuồng gầm thét. Hắn thu viên ngọc đỏ lại rồi vung viên ngọc trắng nhạt ra. Lập tức sóng nước dâng lên cuồng cuộn, mưa xối ào ào như nước chảy trong ống. Nước dâng lên rất nhanh khiến người em thứ hai không tài nào chống nổi, đành phải theo hướng mặt trời lặn mà chạy về núi.

Người anh cả thấy các em mình không trị được Xà tinh thì vô cùng lo lắng. Dâng làng thấy vậy cũng rất lo. Họ liền hợp sức nhau lại, góp công đóng một chiếc thang thật dài, bắc qua sông, bảo người anh cả leo lên hỏi Trời xem có phép gì giúp cho dân làng giết được Xà tinh không. Người anh cả leo thang lên Trời ngay.

Sáng hôm ấy, Trời ngủ dậy muộn, vừa mở mắt Trời đã thấy người anh cả quỳ trước mặt, thưa rõ đầu đuôi câu chuyện và xin Trời giúp cho cách đánh Xà tinh. Suy nghĩ một lát, trời gật gù bảo:

- Con Xà tinh này quả là có lắm phép. Nhưng tài trí của các cháu cũng không kém gì nó lắm đâu. Chỉ vì các cháu chưa biết hợp sức lại mà đánh nên mới trị được phép này, nó lại giở phép khác. Thôi, bây giờ hãy trở về núi cao, đốt lửa gọi hai em cháu về. Rồi cả ba anh em cùng hợp sức đánh thử xem. Nếu vẫn thua, ta sẽ bày cách khác.

Người anh cả vâng lời, trở về núi cao đốt lửa gọi hai em lần nữa. Ba anh em hợp nhau lại cùng với dân làng, chia thành ba ngả kéo thẳng đến sào huyệt Xà tinh.

Đang gục đầu ăn gan trâu trắng, uống rượu đen, chợt thấy ba chàng dũng sĩ đứng chặn ngay trước cửa hang, Xà tinh liền gầm gừ:

- Kìa, ba con thỏ non lại kéo đến nộp mạng rồi. Hãy đợi đấy, ăn uống xong, ta sẽ hỏi tội chúng mày.

Người anh cả đáp lại, giọng to như tiếng cồng vang:

- Yêu quái, hôm nay mày sẽ phải đền tội. Mày đã tàn phá núi rừng này, giết hại dân làng này, giờ đây anh em ta sẽ hợp sức nhau lại trị tội mày.

Xà tinh giận lắm. Nó nhảy ra khỏi hang, giơ viên ngọc xanh ra. Dông bão nổi lên. Nhanh như chớp, người anh cả vung chiếc khiên, giơ đằng đông, núi đằng đông sạt; giơ đằng tây, núi đằng tây đổ. Chiếc khiên quay tròn, cuốn gió thổi bạt cả dông bão của Xà tinh đi. Xà tinh thua trận đầu, vội giở tiếp ngay viên ngọc trắng ra. Nước lũ ào ào tràn tới. Người em út lao ngay ra giữa dòng nước, giơ cao kiếm dẫm chân mạnh xuống đất. Tức thì lớp lớp thành lũy nổi lên, bủa vây và nhốt chặt dòng nước lại. Thấy phép màu bị hại, Xà tinh hấp tấp bốc vội viên ngọc đỏ ra. Khói lửa cuộn đến, cháy ngút trời. Nhanh như cắt, người em thứ hai trút ngay ống nước phép xuống đất. Những dòng nước nhỏ, trong chốc lát biến ngay thành trăm ngàn con rồng bằng nước lạnh, uốn khúc, lấp loáng bám lấy bể lửa. Lửa lụi dần rồi tắt ngấm.

Thấy mất trọn cả ba phép lạ, Xà tinh cuống cuồng toan chạy trốn ra bể. Nhưng chàng Ngọc đã lăm lăm thanh kiếm chặn mắt đường. Xà tinh hoảng sợ vội quay đầu chạy lên núi. Nhưng chàng Lèo đã chống ngọn lao đợi sẵn ở đấy. Bí thế, Xà tinh toan chạy trốn lên trời, nhưng người anh cả đã nhảy vọt tới, vung con dao sắc như nước xả tới tấp vào mình nó. Xà tinh gào thét giãy giụa chuyển cả rừng, rung cả đất. Cuối cùng kiệt sức, nó lăn ra chết, hóa thành dãy núi Róc Ron lởm chởm, nứt nẻ, lồi lõm, cằn cỗi màu chết chóc.

Từ đó, núi rừng Tây Nguyên trở lại cảnh thanh bình ngày trước. Nương đầy lúa, rẫy đầy khoai, sông đầy cá, bờ suối khoe sắc hoa vàng hoa đỏ. Ba chàng dũng sĩ lại chia tay nhau, kẻ xuống hướng đông, kẻ lên phía tây làm ăn. Người anh cả ở lại rừng, dựng nhà rông cao to hơn xưa để giữ gìn quê mẹ. Hàng năm, người em út dưới biển gánh muối lên cho hai anh em, người em thứ hai cõng chiêng, mền lên cho anh cả. Còn anh cả thì chia cho các em gỗ quý, mật ong, thịt rừng, nếp thơm.

Cho đến nay, đồng bào Tây Nguyên còn truyền tụng rằng: người anh cả có tài múa khiên bạt gió, đó là người Tây Nguyên. Chàng Ngọc, người em út ở gần sông gần bể nên thạo nghề đắp đê ngăn nước, là người Việt. Còn người em thứ hai – chàng Lèo ở xứ nóng bức, có gió Lào, hay bị hỏa hoạn nên có tài chống lửa, đó là người Lào. Ba anh em xưa là con một mẹ.

(*) một loại vũ khí đi rừng của người Tây Nguyên.

Nàng tiên thứ 9

Ngày xưa, có một bà cụ già có một người con trai lớn, nhưng bà nghèo quá chẳng có tiền để hỏi vợ cho con. Ðêm nào thấy con trai nằm ngủ một mình bên bếp lửa, bà cũng ra đầu sàn ngồi nhìn trời mà khóc.

Một đêm, sau khi khóc nhiều quá, bà ngã đầu vào cái vách ngủ mê đi lúc nào không biết. Một ánh chớp loé lên, bà cụ vội mở mắt thì thấy một ông già râu tóc bạc phơ, mặc áo xanh, đi giầy xanh, chống gậy xanh, đứng trên ngọn cây mít. Hoảng quá, bà cụ định chạy vào bếp, thì thấy ông cụ già khoát tay, cất giọng hiền từ bảo: “Ta là tiên, biết bà đang khổ vì cảnh nghèo khó, không có tiền đi hỏi vợ cho con, nên ta giúp. Ngày mai bà bảo con trai bà đi theo hướng ta chỉ, cứ đi mãi đến ngọn núi có phiến đá trắng to như cái nhà kia, sẽ thấy chín nàng tiên xuống tắm. Con trai bà yêu cô nào, thì cứ lấy đôi cánh của nàng tiên ấy đem về nhà là được .”

Nói xong Tiên ông biến mất. Mừng quá, bà cụ liền đẩy cửa, vào thổi bếp lửa cháy bùng lên, gọi con dậy, kể lại đầu đuôi câu chuyện vừa qua.


Tờ mờ sáng hôm sau, người con trai gói cơm, đeo ống nước, băng rừng, leo núi, leo hết núi này đến núi khác, đúng trưa mới đến chỗ tiên ông bảo. Một cảnh tuyệt đẹp hiện ra trước mắt. Hồ nước xanh biếc, trong vắt như gương, có đường xuống bến tắm, trên bờ hoa thơm, cỏ lạ đang đua nở khoe sắc cùng ong bướm, sỏi đá lấp lánh như kim cương.

Thấy nắng rung rinh, chàng đưa mắt ngó lên trời, bỗng từ trong đám mây hồng có chín nàng tiên mặc áo xiêm trắng, đang bay và hạ xuống dần. Chàng con trai nghèo liền nép vào bụi nhìn theo. Chín nàng tiên đã đứng trên các phiến đá ngọc, cởi cánh ra, lội xuống tắm. Nước trong, da các nàng tiên trắng ngần, nhìn cô nào cũng đẹp lộng lẫy như mặt trời mọc. Duy có nàng thứ chín là đẹp hiền hậu hơn cả. Tóc nàng đen mướt và dài như dòng suối, giọng cười trong và thanh như tiếng sáo ngân vang: miệng đẹp hơn hoa nở, mắt sáng như sao, khi nàng nhìn vào vật gì vật đó rực lên như có trăm ngàn ánh hào quang chói sáng. Chàng trai liền lẻn đến lấy trộm cặp cánh tiên của cô thứ chín, rồi trở về nhà.

Trống trên trời gióng bảy hồi khoan nhặt báo giờ các cô phải về tiên cung. Tám cô chị lên bờ, lắp cánh của mình và bay trước. Còn cô em mải đùa nghịch dưới làn nước mát, lên sau. Không thấy cánh tiên đâu nữa, nàng hoảng hốt cuống cuồng chạy quanh bờ. Trống trên trời vẫn giục giã, sắp đến giờ đóng cửa của thiên đình. Nàng tiên thứ chín lại chạy quanh bến nước chăm chú tìm lại, nhưng thông thấy. Nhìn dấu chân người còn in trên cát mịn, dấu chân trên đường xuống núi, biết có kẻ lấy đôi cánh của mình rồi, nàng vội vã cài lại áo xiêm, lần theo dấu chân đi mãi . Xế chiều nàng đến một ngôi nhà sàn nhỏ, dựng lẻ loi dưới chân núi. Nàng đang phân vân không biết đi ngả nào, thì một cụ già đến bên nàng chào hỏi: “Cháu ơi! Ðường xa vắng vẻ, cháu đi một mình như thế này nguy hiểm lắm, cháu hãy vào nhà ta ăn cơm, uống nước rồi nghỉ lại đã.” Nhìn nét mặt hiền hậu của bà cụ, nàng tiên gục đầu vào vai bà khóc, kể lại việc nàng bị mất đôi cánh tiên nên không về trời được. Bà cụ đưa nàng vào nhà. Chàng con trai sung sướng bước ra chào hỏi, rồi vào rừng bẻ măng, nhổ nấm đem về đưa mẹ nấu canh cho cô gái ăn. Tối chàng ngồi kéo đàn kơ ri – loại nhạc cụ réo rắt như đờn cò của người kinh – cho cô gái yên giấc.

Ở đây một tháng, hai tháng, lúc đầu nàng tiên thứ chín hết sức nhớ mẹ, nhớ cha, nhưng được sự chăm sóc, trìu mến của bà cụ và chàng trai hiền hậu, siêng năng, nên nàng khuây khoả dần. Buổi sáng nàng cũng đi lên rẫy, vào rừng, buổi chiều nàng cũng ra giếng đội nước với chị em.

Nửa năm sau người con trai bà cụ lấy nàng tiên. Hai vợ chồng sống bên nhau rất hòa thuận, vui vẻ. Dân làng ví họ là cặp vợ chồng chim sáo – vì họ vừa xinh đẹp, vừa chịu khó làm ăn. Người chồng chưa bao giờ mắng vợ nửa lời. Chiều nào lên rừng về, chàng cũng cố tìm cho mẹ và vợ một ống mực thơm, một bó rau ngót, một bó măng, hay lưng gùi ngô non thơm sữa. Hai mùa, ba mùa, đến một đêm trăng tròn vành vạnh, nàng tiên thứ chín sinh được một đứa con trai kháu khỉnh. Từ đó, trong nhà càng thêm đầm ấm, vui vẻ hơn. Nhưng một hôm trời đang yên lành, bỗng có tiếng sấm ầm ầm, giận dữ. Mây đen, mây xám kéo đầy trời. Lửa đỏ rực, chớp nhằng nhịt dữ tợn. Người vợ vừa cõng con ra đứng đầu sàn phía tây, đột nhiên thấy thiên lôi từ trên trời cầm búa nhảy xuống sân. Mặt giận dữ, Thiên lôi bảo rằng, hắn vâng lệnh Trời, xuống bắt nàng tiên phải về ngay, nếu không sẽ giết chết con nàng, giết cả chồng và người mẹ chồng của nàng nữa. Thương con, thương chồng quá, nàng tiên ngã gục xuống khóc nức nở rồi chạy vào nhà rút ba ống nứa dài vắt đầy sữa, nhẹ nhàng đặt con lên chiếu, cắt một nắm tóc để lại cho chồng, rồi theo Thiên lôi về thiên đình.

Chiều bà cụ và người chồng về nhà, không thấy nàng tiên, chỉ thấy đứa con nằm ngủ bên nắm tóc thơm của mẹ nó. Nhìn cây cối ngả nghiêng, cháy xém, biết có điều hung dữ xảy ra, chàng cõng con trên lưng, bước xuống cầu thang đi vào rừng, nhìn trời khóc suốt chín ngày đêm. Tiếng khóc ai oán, ấm ức nghe nghẹn cả cổ, đau cả lòng. Ðược tin, dân làng thương quá, rủ nhau giúp sức, góp của. Nhờ bác thợ rèn chuyên nghề chim sắt biết bay, đúc cho hai cha con người xấu số ấy một con chim công sắt.

Ðược chim sắt rồi, hai cha con ngồi trên lưng công bay vút lên trời. Qua mây hồng, mây bạc, mây xanh, đến sông Hằng sắp tới triều đình, thì công sắt không tài nào bay qua được. Gió to, sóng gầm dữ dội. Năm bảy lần con công cất cánh đều lao đao muốn rớt. Hai cha con đành ở bên này sông. Một hôm, người vợ ra sông giặt áo, đứa con nhỏ thấy mẹ, liền gọi lên. “Mẹ ơi!” Người vợ quay sang, hai vợ chồng nhìn thấy nhau, nhưng không gần nhau được. Ðau khổ quá, họ bưng mặt khóc.

Dân làng nhà trời thấy vậy vô cùng thương xót. Họ vào xin thiên đình cho hai vợ chồng được gặp nhau. Nhưng thiên đình không cho, viện cớ sắp gả nàng tiên thứ chín cho chàng trai thuộc dòng họ quyền quý. Không quản ngại, dân làng liên tiếp cử người đến gõ cửa, buộc thiên đình phải xử. Cuối cùng Ngọc Hoàng phải xuống lệnh nếu chồng cô thứ chín làm được mấy việc sau này mới lấy được con gái nhà trời. Thứ nhất là trong một ngày phải nhặt hết số vừng rơi trong khu rẫy dài bằng một khoảng chim bay mỏi cánh. Thứ hai là phải ăn hết những ớt gió đã chín trong một khu rừng ớt. Thứ ba là phải làm một cái nhà bằng kim cương thật đẹp giữa sông Hằng. Thương con, thương vợ người chồng phải nhận. Sáng hôm sau, hai cha con dậy thật sớm để nhặt vừng, nhưng mãi cho tới trưa, khi mặt trời đã ở giữa đỉnh đầu mà vẫn chưa nhặt được bao nhiêu. Thấy thế, Tiên ông liền đọc phù chú, gọi một bầy chim sẻ đông nghịt, bay xuống nhặt hộ, chẳng mấy chốc đã hết nhẵn.

Nhưng còn rừng ớt chín đỏ kia làm sao hái hết cho được. Người chồng cố hái ăn, bụng nóng như lửa đốt, mắt đỏ xè, thế mà mới ăn được mấy quả. Tiên ông thấy vậy , liền niệm thần chú hoá ra một đàn chim chào mào bay xuống ăn giúp. Trong giây lát cả rừng ớt chỉ còn trơ lại cành lá. (Ðến nay người Hê- rê giải thích chim chào mào đỏ đít là do ngày xưa nó ăn ớt cứu người).

Ðã đến lúc phải xây nhà kim cương giữa sông Hằng chảy xiết. Chàng trai và dân làng đổ rất nhiều công đẵn gỗ thả xuống sông, nhưng gỗ dù nặng dù to mấy đều bị nước cuốn phăng đi như cuốn một cái lá. Một ngày không được, một tháng không được, một mùa không được, một năm không xong, hết phương kế, chàng trai ôm con ngồi bên bờ sông than khóc thảm thiết.

Thần cá liền ra lệnh cho cá chình, cá sấp, cá chép, lươn chạch, cua, rùa, cá lóc, cá nghạnh… đều bơi lại giúp. Một con chình to lớn quẫy mạnh, nhô đầu lên bảo: “Anh đừng lo, ngày mai anh sẽ có nhà đẹp và sẽ được gặp vợ. Hãy vui lên, đừng khóc nữa!” Quả đúng như vậy, sáng hôm sau, khi mặt trời vừa thức giấc, bỗng có một ngôi nhà lấp lánh bằng kim cương hiện lên đồ sộ giữa sông. Chung quanh sóng vỗ rạt rào. Chiếc nhà do các loài cá xây nên, cá chình nhận làm cột, cá lóc làm sạp, cá sấp, cá chép làm mái nhà. Cá nghạnh làm xà, rùa làm bếp, cua làm móc chiêng, lươn, chình thì nối đuôi nhau thành một cái cầu tuyệt đẹp từ bờ ra đến giữa sông.

Ngọc Hoàng cùng thần hung ác thấy nhà đẹp mới chịu đem thuyền cho anh chàng nghèo sang sông gặp vợ. Còn bọn chúng thì hí hửng khiêng lúa, gạo, chiêng, ché ra nhà kim cương ở, chúng lao nhao tổ chức lễ ăn mừng. Nhưng khi vừa nhóm lửa nấu thịt thì rùa làm bếp bị nóng lưng quá lăn ngay xuống nước. Cùng lúc cá chình, cá lóc, cá sấp, cá trê… cũng lăn theo. Nhà đổ sập làm chìm cả lũ gian thần xuống dòng sông chảy xiết đầy cá sấu, cá măng. Trời cao vòi vọi, sóng nước mênh mông trắng xoá.

Từ đó nàng tiên thứ chín và chồng được cai quản thiên đình, làm cho mưa rơi xuống, mát mẻ trần gian. Làm cho nắng chiếu xuống để cây cỏ xanh tươi, bốn mùa hoa nở. Lâu lâu họ chắp cánh bay xuống tắm ở suối ngọc rồi về thăm mẹ già và bà con quê cũ.

Thứ Năm, 25 tháng 7, 2013

Thần thoại Hy Lạp và La Mã - Athena và Demeter



ATHENA (Thần thoại La Mã gọi là Minerve), vị thần của nghề thủ công và nội trợ nhưng đồng thời cũng là một vị thần chiến tranh. Athena là vị thần bảo hộ của Athen. Nguyên hình của vị nữ thần vĩ đại này xuất phát từ hình dạng của loài chim với dấu hiệu chính là con cú.

Zeus kết hôn cùng Metis, người con gái thông thái của Biển cả. Khi nàng mang thai, Zeus đã được cảnh báo từ các nữ thần Hộ Mệnh rằng đứa con sinh ra từ Metis sau này sẽ lật đổ ông ấy cũng giống như ông ấy đã từng đoạt ngai vàng của bố mình (Cronos) trước kia.

Vì thế Zeus đã nuốt cả Metis lẫn cái thai trong bụng. Liền sau đó Zeus phải cố gắng vật lộn với những cơn nhức đầu triền miên, Zeus đành mời gọi thần Hephaestus. Hephaestus đã chẻ trán của Zeus ra bằng cái rìu của mình và Athena từ đó đã vọt ra với đầy đủ vũ khí, y phục.

Sau này chính Athena đã hỗ trợ cho các anh hùng: Perseus, Jason, Cadmus,Odysseus và Heracles trong những chuyến hành trình của họ. Đặc biệt trong cuộc chiến thành T’roa, lúc quân Hy Lạp gần như vô vọng trong việc phá thành thì Athena đã giúp quân Hy Lạp tạo ra con ngựa gỗ khổng lồ, kết quả là T’roa lọt vào tay quân Hy Lạp ngay sau đó.

Cả Athena và Poseidon đều muốn trở thành thần bảo hộ cho miền Atikes. Để xứng đáng với sự tôn kính của mình, Athena đã tạo ra một cây ôliu làm tươi tốt khắp các thành luỹ Atikes và cả vùng đất Acropolos. Poseidon cố gắng vượt qua Athena bằng cách dùng cây đinh ba của mình đâm xuyên qua mặt đất làm phun lên những cột nước khổng lồ, tuy nhiên vì ông ấy là vị thần của Biển cả nên trong nước chỉ có… muối. Món quà của Athena với người dân Atikes xem ra hữu ích hơn, vì vậy Athena đã trở thành vị thần bảo hộ cho vùng đất này. Thành cũng được đổi tên thành Athens.

Peuseus cũng đã được Athena hổ trợ trong cuộc truy sát quái vật Medusa vì nàng muốn trang trí cái khiên của mình bằng đầu của Gorgon.

Athena là một nữ thần rất mực thông minh, một nữ thần vừa hiếu chiến vừa chủ hoà, vì chỉ có sau khi chiến thắng thì mới có hoà bình. Nàng khuyến khích tinh thần chiến đấu của các dũng sĩ, cho họ sức mạnh và lời khuyên lúc nguy nan. Athena cũng dạy cho dân chúng các kiến thức khoa học, dạy họ nghệ thuật và các nghề thủ công…

o O o

DEMETER (Thần thoại La Mã gọi là Ceres) là Nữ thần Nông Nghiệp, cai quản mùa màng và nghề nông ở hạ giới. Demeter là con gái của Cronus và Rhea, là chị gái của thần Zeus và là mẹ của Persephone-Vợ của Hades.

Nàng thường đi đây đi đó để dạy cho loài người trồng trọt, chăm lo cho đất đai màu mỡ, cgo cây cối ra hoa kết trái. Không có Demeter thì đất đá trở nên khô cằn và cây cối khô héo mà chết. Với quyền năng này, nàng trở thành người bạn thân thiết của loài người và được người đời sùng kính.

Demeter có vớI Zeus một người con gái vô cùng xinh đẹp tên là Persephone. Một hôm Persephone đang hái hoa trên bãi cỏ thì mặt đất nứt ra một vết rất lớn và Diêm vương Hades vươn lên từ thế giới của bóng đêm. Vị thần đuổi bắt Persephone vào cỗ xe ngựa rồi trở về địa phủ, nơi nàng trở thành Hoàng hậu. Demeter vô cùng đau khổ, nàng đã đi cùng trời cuối đất hy vọng tìm được con gái mình, suốt thời gian đó mùa màng héo úa và mùa đông kéo dài đến vô tận.

Cuối cùng Hades cũng đã bị thuyết phục là sẽ trả Persephone lại nửa năm một lần, khi mùa xuân và mùa hè đến, khi đó hoa trái nở rộ. Nửa năm còn lại Persephone ở dưới địa phủ thì cũng là mùa khô cằn lạnh giá trên thế gian.

Demeter thường được mô tả trong nghệ thuật với hình ảnh đang mang một bó lúa.

Pegasus và Icy biên dịch
Nguyên bản tiếng Anh từ Mythweb

Thần thoại Hy Lạp và La Mã - Hermec

Thần HERMES (Thần thoại La Mã gọi là Mercury) là sứ giả đưa tin của các vị thần và là người dẫn đường cho các linh hồn sau khi chết xuống địa phủ. Bản tính Hermes vốn hiếu động thông minh từ nhỏ. Chàng từng giúp đỡ các anh hùng Odysseus và Perseus trong những cuộc đi săn của họ.

Hermes là con trai thần Zeus và một nữ thần núi. Khi mới ra đời chàng đã tỏ ra vô cùng tinh khôn.Thuở thiếu thời có lần chàng tìm thấy một cái mai rùa rỗng và đã để ý thấy tiếng vang từ trong đó. Chàng đã cột các sợi gân vào khe mai và tạo ra chiếc đàn lia đầu tiên.

Hermes được mọi người biết đến bởi sự giúp ích của chàng đối với loài người, bằng tài năng của một người đưa tin lẫn những sáng kiến của chàng. Khi Perseus quyết định giáp mặt với Gorgon Medusa, Hermes đã giúp người anh hùng này. Theo một bản thần thoại thì Hermes đã cho Perseus mượn đôi giày phép thuật của mình, ai mang nó vào sẽ bay được.

Có người cho rằng Hermes đã cho Perseus mượn một cái mũ tàng hình. Đây chính là chiếc mũ bóng đêm, cũng giống như cái mũ mà Hermes đội khi chàng đánh bại tên khổng lồ Hippolytus. Chuyện xảy ra khi những đứa con trai khổng lồ của mặt đất ngoi lên định soán quyền với các vị thần trên đỉnh Olympus.

Biểu tượng nghề nghiệp của Hermes với tư cách sứ giả chính là chiếc đũa caduceus.

Nguồn gốc của nó là một nhánh cây liễu có nhiều dây ruybăng quấn quan, theo truyền thống là huy hiệu của người đưa tin. Nhưng các dải ruybăng về sau lại được liên hệ đến hình ảnh loài rắn. Để củng cố cho điều này, một câu chuyện cho rằng Hermes đã dùng chiếc đũa thần để tách 2 con rắn đang cắn nhau ra, sau đó chúng đã quấn mình quanh cây đũa cùng chung sống trong hòa bình.

Nhiệm vụ của Hermes là dẫn dắt các linh hồn sau khi chết đi xuống địa phủ. Vì là người bảo trợ cho những linh hồn nên chàng thường đội một cái mũ bằng rơm rực rỡ ánh sáng. Hermes được gọi là Mercury trong thần thoại La Mã. Hình ảnh nổi tiếng nhất về chàng là một bức tượng do Bellini điêu khắc thể hiện chàng nhanh nhẹn trên 1 chân, ở gót có cánh, chiếc đũa rắn cầm tay và ở trên đầu là một thứ kết hợp giữa chiếc mũ tàng hình và chiếc mũ ánh sáng.

Thứ Tư, 24 tháng 7, 2013

Thần thoại Hy Lạp và La Mã - Artemis

ARTEMIS (Thần thoại La Mã gọi là Diana) là Nữ Thần đồng trinh (Nàng đã xin phụ vương Zeus cho Nữ Thần đồng trinh không bao giờ phải yêu) cai quản việc săn bắn. Nàng giúp đỡ những người phụ nữ trong việc sinh nở nhưng cũng mang đến những cái chết bất ngờ với những mũi tên của mình.

Artemis và anh trai Apollo là con của Zeus và Leto. Trong vài phiên bản Thần thoại khác thì Artemis được sinh ra trước và giúp đỡ Mẹ của mình sanh ra Apollo.


Niobe, nữ hoàng thành Thebes, đã khoe khoang là hơn hẳn Leto vì có nhiều con trong khi Nữ Thần Leto chỉ có 2 người con. Artemis và Apollođã rửa nhục cho mẹ bằng cách dùng tên lần lượt giết tất cả những đứa con của Niobe. Trước cái chết của các con mình, Niobe đau lòng than khóc đến khi hoá đá vẫn chưa nguôi.

Để ý thấy em gái suốt ngày đi săn với tên khổng lồ Orion, Apollo quyết định chấm dứt mối quan hệ này. Thần thách Artemis chứng tỏ tài nghệ của mình bằng cách bắn vào một vật đang trôi ngoài biển. Những phát bắn của Nữ Thần đều rất hoàn hảo. Sau đó nàng mới biết vật đó là cái đầu của Orion.

Artemis thường được miêu tả như một thiếu nữ trẻ mặc bộ áo quần làm bằng da hươu, vai đeo một cánh cung và một bao tên. Nàng thường được các động vật hoang dã như hươu hoặc gấu cái hộ tống.

Thần thoại Hy Lạp và La Mã - Ares

ARES (Thần thoại La Mã gọi là MARS) là Thần chiến tranh, hay chính xác hơn là vị thần của những kẻ cuồng loạn hiếu chiến. Là một vị thần bất tử nhưng Ares đã bị Harales đánh bại trong một trận đánh và có lần còn suýt bị hai tên khổng lồ giết chết. Khi bị thương trong cuộc chiến thành Troy, thần đã không được phụ vương Zeus đoái hoài gì đến.

Thần Ares có diện mạo khôi ngô nhưng bản tính rất tàn bạo. Thần thường được miêu tả cầm một ngọn giáo dính máu đỏ tươi. Tương truyền chiếc ngai của Thần trên đỉnh Olympus được bọc kín bằng da người.

Thần Mars trong thần thoại La Mã và thần Ares được xem là như nhau. Mars là cha của Romulus và Remus, hai huyền thoại sáng lập ra thành Rome. Vì vậy đối với dân La Mã thần Mars có vị trí quan trọng hơn và được sùng kính hơn

Thứ Ba, 23 tháng 7, 2013

Đôi giày hạnh phúc phần cuối

Mình vừa mơ thấy một giấc mơ kỳ cục; tự dưng lại thành ông trung uý ở trên gác, chẳng được hơn cái gì mà lại đâm ra nhớ mẹ thằng cu và mấy đứa con.
Bác ngồi xuống cái ghế vẫn ngồi canh cúi đầu suy nghĩ mông lung. Bỗng trên trời có một vì sao đổi ngôi. Bác lẩm bẩm:
- Sao đổi ngôi! Chắc là đổi sang một thế giới sung sướng hơn. Ước gì mình được đến gần vì tinh tú ấy mà xem nhỉ. Nhất là lại được đến mặt trăng thì tuyệt. Giá được đi chơi một vòng trên ấy thì nếu có chết ở bậc cửa này cũng cam.
Trên đời này có nhiều điều phải dè dặt trong lời nói. Xỏ đôi giầy hạnh phúc vào lại càng phải thận trọng. Chuyện đã xảy đến với bác tuần canh như sau:
Vừa dứt lời, bác tuần canh đã vượt qua sáu vạn dặm lên tới cung trăng. Bác tuần canh sa vào một ngọn núi lửa thường thấy vẽ trên tấm bản đò mặt trăng của nhà bác học Hat-le. Mặt trăng được cấu tạo bằng một chất nhẹ hơn trái đất của chúng ta, tựa như tuyết khi mới rơi xuống đất. Bác tuần canh thụt sâu xuống đến nửa dặm Đan Mạch. Bên dưới là một làng hoàn toàn một màu lòng trắng trứng hoà với nước, nhưng nom rõ cả cái tháp tròn, cửa cuốn ban thờ đung đưa trên không. Trái đất của chúng ta tựa như một ngọn đèn khổng lồ treo lơ lửng trên đầu. Trên mặt trăng có nhiều sinh vật mà trái đất ta gọi là người, nhưng họ không giống chúng ta. Họ cũng có tiếng nói linh hồn bác tuần canh nghe hiểu được.
Trên mặt trăng họ cũng có những cuộc tranh luận về trái đất chúng ta. Họ nêu giả thuyết trái đất có người sinh sống và bàn cãi. Nhiều ý kiến cho rằng không khí ở trái đất dầy đặc quá, không thể sống được, chỉ có mặt trăng là có sinh vật mà thôi. Mặt trăng là tinh tú hoàn hảo nhất. Đấy là nơi trú ngụ của người nhà trời thời cổ xưa.
Chúng ta quay lại phố cửa Đông xem bác tuần canh bây giờ thế nào.
Bác đang nằm chết ở bậc cửa, mắt bác ngước lên mặt trăng, nơi hồn bác đang du ngoạn. Một người đi đường hỏi:
- Mấy giờ rồi bác?
Thấy bác không trả lời, người ta véo vào mũi bác, lấy tay vả vào mồm bác. Bác vẫn nằm sóng sượt bất tỉnh như một xác chết. Ai thấy thế cũng sợ. Họ cho là bác chết rồi, không thể cứu chữa được. Nhưng tảng sáng họ vẫn đưa bác vào nhà thương. Chúng ta tưởng tượng xem khi trở bác về trái đất hồn bác không tìm thấy xác thì bối rối biết chừng nào. Chắc hẳn hồn bác phải chạy đến sở cảnh sát, rồi đến phòng giữ đồ đạc, đánh mất và cuối cùng đến nhà thương. Hồn con người được thả lỏng thì tinh khôn lắm. Chỉ khi nhập vào xác. Hồn mới trở thành đần độn, nhất định nó sẽ tìm được xác bác tuần canh. Khi đem bác vào nhà thương, người ta đưa bác ngay xuống nhà xác. ở đây người ta chuẩn bị để nhập quan. Trước tiên phải cởi bỏ quần áo cũ và giầy dép để lau rửa cho bác rồi mặc áo quần mới. Người hộ lý vừa tụt đôi giầy ở chân bác tuần canh ra bỗng bác bật dậy. Thì ra hồn bác đã quay về tìm được xác bác và nhập vào và bác sống lại.
Bác tuần canh đã kể lại câu chuyện trong đêm và nói rằng đêm ấy là một đêm khủng khiếp nhất trong đời bác. Có cho bác hai đồng tiền mà bảo bác sống lại một đêm như thế, bác cũng xin chịu.
Ngay hôm ấy bác ra viện, nhưng đôi giầy thì ở lại trong nhà thương.
Người dân thủ đô Côpenhahagơ không ai biết cách cửa vào bệnh viện Frêđêrich, nhưng tất cả các bạn đọc sách của tôi không phải ai cũng là người Côpênhagơ, nên tôi muốn giới thiệu vắn tắt vài nét.
Từ ngoài phố đi vào nhà thương có một hàng rào sắt khá cao, chấn song sắt to và thưa, đủ cho trẻ con chui qua. Thông thường thì có cái đầu là khó chui nhất. Hễ đầu đi thì đuôi cũng lọt, người ta vẫn nói thế mà. Nhưng trường hợp sắp kể dưới đây có khác.
Một anh y tá phụ trẻ tuổi của nhà thương hôm ấy có phiên gác đêm. Mưa rào nhưng anh ta vẫn muốn bỏ trốn đi chơi mười lăm phút. Tối trời lại mưa, chẳng ai ra ngoài lúc này, nên cậu gác chui qua lối cổng chính.
Vừa lúc ấy cậu ta trông thấy đồi giầy bác tuần canh để quên. Giời mưa được đôi giầy đi thì tiện quá. Cạu liền vơ lấy xỏ luôn vào chân. Rồi cậu ra phía cổng để chui qua hàng rao. Vừa đi cậu vừa lẩm nhẩm như cầu nguyện: ”Lạy giời, sao cho đầu tôi lọt qua được!“
Nhờ phép lạ của đôi giầy, cái đầu to tướng của cậu chui qua một cách dễ dàng. Giờ đến lượt cái mình. cậu cứ tưởng đầu đi thì đuôi lọt. Nhưng loay hoay mãi vẫn không lách bụng ra được.
- Không ngờ mình lại to béo thế. Cậu lẩm bẩm một mình.
Xoay người đi, xoay người lại đến rách cả áo, cậu ta vẫn không sao qua được.
Oái oăm hơn nữa là rút đầu lại cũng không được. Thế là tiến thoái lưỡng nan! Cậu nổi cáu, không còn giữ được vui vẻ như ngày thường. Giẫy giụa mãi cũng không ăn thua gì. Thế mới chết chứ!
Trời vẫn mưa như trút nước xuống, phố xá vắng tanh. Muốn với cái chuông để giật nhưng không với tới. Làm thế nào để thoát khỏi bước nguy khốn này. Chưa biết chừng cứ phải đứng như thế này cho đến sáng, rồi nhờ ông thợ khoá đến cưa một song sắt đi. Nhưng vậy thì lâu quá, mưa rét thấm vào người cảm mất; rồi các chị nhà bếp và bọn trẻ con kéo nhau đến xem và bêu xấu mình.
- Ôi nguy quá! Nguy quá! Ước gì thoát khỏi nơi này! Cậu vừa dứt lời liền rút được đầu ra ngay. Giá cậu biết đôi giầy có phép lạ thì phải ước sớm hơn nhưng cậu không hay biết gì cả.
Hết tội ấy lại đến tội khác, rõ khổ cho cậu phụ tá bệnh viện. Tôi xin kể tiếp để bạn đọc nghe.
Ngay tối hôm ấy tại câu lạc bộ có đêm văn nghệ. Chương trình có tiết mục ngâm thơ. Đầu đề bài thơ là: “Đôi kính lão của bà nội”.
Nội dung bài thơ như sau: Bà nội có đôi kính nhìn thấy suốt tâm can mọi người, nhìn ai là đọc được những ý nghĩ thầm kín của người ấy. Cậu phụ tá nhà thương cũng có mặt trong buổi văn nghệ ấy. Trời mưa đường lội nên cậu ta vẫn kéo đôi giầy bắt được hôm trước, vì không thấy ai đến đòi.
Cậu ta cứ suy nghĩ về chủ đề bài thơ và ước ao có được cái kính như thế nào thì cậu cũng có thể thấu suốt tâm can mọi người.
Nếu mình đột nhập vào đáy lòng các ông bà khán giả ngồi ghế hàng đầu kia thì mình sẽ lục lọi khắp chỗ trong lòng họ như lục lọi một kho hàng. Lòng bà này thì như một ngăn chứa đầy quần áo đủ kiểu đủ mốt; lòng bà kia thì rộng tuếch chẳng có gì. Lòng bà thứ ba con tim thấy mình mời chào rối rít lại xem. giá mình lọt được vào một con tim nhỉ!
Cầu được ước thấy.
Cậu chui ngay vào tim một bà sang trọng. Cậu thấy tim bà ta như một mỹ viện. Cậu vào một căn phòng, trên tường treo nhiều chân tay dị dạng. ở đây khác với mỹ viện. ở mỹ viện, người tàn tật đến mới làm khuôn, còn trong tìm bà thì những con người tội nghiệp không cần trình diện cũng được làm khuôn và khuôn được giữ lại cẩn thận. Bà chủ có toàn bộ chân dung các bạn của bà rất phong phú làm nổi bật những nhược điểm về thể chất và tinh thần từng người.
Lục lọi xong trái tim bà thứ nhất, cậu phụ tá sang trái tim một bà khác. Tim bà thứ hai này giống như một toà nhà thờ rộng lớn và thần bí. Chim bồ câu trắng tượng trưng cho sự trong sạch xoè cánh trên bàn thờ. Nếu không phải đi sang trái tim khác thì cậu ta đã quỳ xuống rồi. Sang đến trái tim khác vẫn còn nghe vọng thấy tiếng phong cầm. Tìm trong danh sách các vị tai to mặt lớn thế nào cũng thấy tên bà.
[img][/img]
Bước sang trái tim khác, anh thấy như vào một phòng khách dát toàn bằng gương như trong lâu đài Rôxăngpo nhưng khác ở lâu đài kia là gương ở đây phóng đại mọi vật lên to một cách ghê ghớm.
Sau cùng cậu ta vào một trái tim, cậu thấy bí rì, gỡ mãi mới tìm được lối ra.
Đến đây thấy mệt rồi, cậu đình chỉ việc khám nghiệm. Cậu thấy choáng váng, đầu óc quay cuồng, thân thể bất an.. Và cậu ta nghĩ ngay đến cách chữa là nước tắm nước nóng.
- Ước gì mình được ở trên bậc cao nhất của phòng tắm để nước đầy đủ và có độ nóng tốt nhất.
Cầu sao được vậy. Hơi nước tụ thành giọt nhỏ xuống mặt cậu. Nước nóng quá! Cậu thét lên và nhảy bổ sang phòng tắm nước lạnh. Cậu hầu phòng thét lên khi thấy cậu ta mặc cả quần áo vào buồng tắm. Cậu ta đã nhanh trí biện bạch.
- Tôi chơi đánh cuộc đấy mà.
Về đến nhà, việc đầu tiên là cậu ta dán ngay một lá cao lên gáy và lưng để khỏi phát điên. Vậy mà hôm sau lưng cậu ta vẫn rộp cả lên.
Đi đôi giầy hạnh phúc vào, cậu ta sướng thế đấy.
doi-giay-hanh-phuc1
Mấy hôm sau cũng chẳng thấy ai đến nhận đôi giầy, bác tuần canh để đem đến sở cảnh sát.
Một ông tham làm việc tại đó, ngắm nghía đôi giầy, rồi đặt cạnh đôi giầy của mình, ông bảo:
- Hai đôi giầy giống nhau như hệt. Ngay thợ giầy cũng khó phân biệt đôi nào với đôi nào.
Có người cầm lá đơn đến trình:
- Bẩm quan tham!
Ông tham quay lại nói vài câu, rồi quay lại chỗ để giầy.
Nhưng ông chẳng còn nhớ đôi giầy nào là của mình. Ông nghĩ đôi nào ướt là của mình.
Nhưng ông ta đã nhầm, chính đôi giầy ướt là đôi giầy hạnh phúc.
Ông tham xỏ giầy, nhét công văn vào túi đem về nhà xem. Thấy đẹp trời ông đi dạo một lúc lên quảng trường Frêđêrich. Vừa đi ông vừa ngắm cảnh. Ông nhìn chim chóc nhảy nhót ca hát vui vẻ trên cành và nói như than thở:
- Chúng sướng thật! Sướng hơn ta nhiều! Bay bổng tít trên trời, đi mây về gió, tha hồ tung cánh. Ước gì mình cũng bay được như chúng!
Vừa nói xong, cánh tay và vạt áo của ông biến thành cánh chim, vải biến thành lông, giầy biến thành chân chim. Ông đã thay hình đổi dạng và nghĩ thầm:
- Vậy là mình đã thành chim, tha hồ bay lượn. Tất cả vạn vật đều ở dưới ta. Bạn của ta là nắng, là gió, là mây.
Vừa nói một mình như thế, ông tham bây giờ là chim sơn ca, chao lên đảo xuống. Một lúc lâu, ông xà xuống, ngó nghiêng tứ phía. Bỗng có cái gì to lớn úp chụp lên người ông. Thì ra một chú bỏ đi ngang qua đấy, thấy con chim đẹp liền lấy mũ chụp lấy và nắm chắc mang đi.
Ông tham hoảng quá, ông kêu lên:
- Bỏ tao ra, đồ ranh con! Có bỏ ra không?
Thằng bé chỉ nghe tiếng chim chiêm chiếp nên chẳng biết là ông tham.
Dọc đường, nó gặp hai cậu học trò. Các cậu hỏ mua thằng bé đồng ý bán với giá tám si linh. Thế là ông tham được chúng đem về phố Gốt, kinh thành Côpennhagơ.
Mấy đứa trẻ mang ông vào một ngôi nhà đẹp. Một bà to béo ra đón chúng. Nhưng bà tỏ vè không thích chim sẻ (bà gọi chim sơn ca, tức ông tham là chim sẻ); bà ta chỉ cho đem vào một ngày thôi mà phải nhốt vào lồng, treo ở cửa sổ.
- Có lẽ Pốp thích lắm đây! Bà vừa nói vừa chỉ tay vào một con vẹt xanh to tướng đang lắc lư cái đầu trong chiếc lồng bằng đồng thau. Hôm nay vừa đúng là ngày sinh nhật của Pốp. Con chim sẻ sẽ chúc mừng nó.
Một con hoàng yến trong lồng hót vang. Bà to béo mắng và vứt cái giẻ trắng trùm lên lồng nó. Con chim hoàng yến kêu thêm vài tiếng rồi im bặt. Ông tham (tức chim sẻ) được nhốt vào lồng bên cạnh lồng hoàng yến, đặt gần lồng con vẹt. Con vẹt oang oang một tràng tiếng người mà chủ dạy nó. “Thôi thôi để yên cho chúng tao sống làm người với chứ!”.
Hoàng yến cũng hót lên cho người bạn mới nó là con chim sẻ nghe:
“Mới đây không lâu tôi còn bay lượn dưới bóng dừa xanh và bóng cây hạnh đang nở hoa. Tôi bay cùng các anh chị tôi trên rừng hoa thơm ngát, trên mặt biển trong vắt, trên bờ rợp bóng cây. Tôi cũng đã nghe nhiều con vẹt hót nhiều chuyện rất hay rất lạ.
Vẹt ngắt lời:
- Anh nghe đấy là vẹt rừng. Chúng không được dạy dỗ gì cả. “Thôi để yên cho chúng tao sống làm người với chứ! Sao mày không cười ầm lên. Bà chủ và khách cũng đang cười kia kìa. Mày không biết thưởng thức những cái hay ở đời. Thôi!thôi để yên cho chúng tao sống làm người với chứ!
- Mày còn nhớ bóng dáng các cô xinh đẹp nhảy múa dưới rặng chuối đang trổ hoa hay không! Có nhớ những khu rừng già rợp bóng mát và đầy hoa thơm quả ngọt không?
Vẹt đáp:
- Có chứ! Nhưng bây giờ tao thấy sung sướng hơn. Tao được nuôi nấng đầy đủ, được đối xử tử tế. Tao thấy thế nàyy là thoả mãn rồi không còn gì hơn nữa. Từ nay trở đi chúng ta hãy sống như người thật. Hãy bỏ giọng hót bi ai của mày đi! Hãy nói cái gì làm cho người ta cười lên. Tiếng cười biểu hiện sự thông minh đã đến tuyệt đỉnh. Chó hay ngựa có biết cười đâu? Chúng nó kêu thì được, chứ cười thì không. Chỉ có loài người mới biết cười. Từ nay trở đi chúng ta sẽ sống như người thật.
Hoàng yến quay lại sẻ nói:
- Này chú chim sẻ xứ Đan Mạch. Thế là chú cũng bị cầm tù rồi. Chú sống trong cánh rừng chắc rét lắm, nhưng mà được tự do. Hãy quay về đi thôi. Chuồng chú người ta quên đóng cửa. Phía trên lại có cái cửa sổ để ngỏ. Trốn được đấy! Trốn đi!
Không một phút do dự, chim sẻ nhảy phắt ra khỏi lồng. Cùng lúc có tiếng cửa phòng rít lên. Một con mèo mắt xanh lẻn vào săn chim. Hoàng yến vùng vẫy kêu lên. “Từ nay chúng ta hãy sống với nhau như người thật!” Ông tham sợ quá, vội bay vọt ra khỏi lồng, rồi chẳng phương hướng gì, cứ mải miết bay, qua nhà cửa, phố phường. Đến lúc mỏi cánh, ông dừng lại xả hơi. Thấy nhà bên cạnh quen quen, có một cửa sổ để ngỏ, ông bay vào.
Lại chính nhà ông! Ông ngồi ngay vào bàn, chẳng suy nghĩ gì, chỉ nhắc lại câu nói của con vẹt: “Từ nay trở đi chúng ta hãy sống như người thật”.
Và, kỳ diệu sao, ông tham lại biến thành ông đang ngồi ở bàn. Ông kêu lên:
- Lạy trời phù hộ! Thế nào mà mơ xong, mình lại ngồi đây! Lúc nãy mới lo làm sao chứ! Thật là dại dột!
Sáng sớm tinh mơ hôm sau, ông tham còn đang nằm trên giường đã nghe tiếng gõ cửa. Đấy là một anh sinh viên khoa thần học, nhà ở phòng bên cạnh, cùng một gác. Anh bước vào khẩn khoản:
- Bác cho tôi mượn đôi giầy. Ngoài vườn ướt quá, tôi muốn ra thở hít không khí trong lành buổi sáng.
Anh xỏ giầy vào chân và xuống ngay dưới vườn. Trong vườn chỉ có một cây táo và một cây mận. Nhưng giữa thủ đô Côpenhagơ mà có được một mảnh vườn dù nhỏ cũng là thú vị. Anh sinh viên đi bách bộ. Trời còn sớm. Chưa đến sáu giờ. Ngoài phố bỗng vang lên tiếng tù và của người đánh xe ngựa. Nghe tiếng vó ngựa lọc cọc trên đường cái quan, anh liên tưởng ngay đến chuyện du lịch và kêu lên:
- Ôi du lịch! Du lịch thật là sung sướng, thật là hạnh phúc ở đời. Ta không mong gì hơn. Đó là liều thuốc an thần giữa lúc ta đang bị tâm can cắn rứt. Ước gì ta được sang Thụy Sĩ một chuyến, rong ruổi qua nước Ý.
Cầu được ước thấy. Cũng như những người trước anh xỏ đôi giầy hạnh phúc vào chân, ước cái gì được ngay cái ấy. Anh sinh viên ước đi du lịch, lập tức đôi giầy đã đưa anh sang nước Ý đúng như mong ước của anh. Anh ngồi trong một cái xe ngựa, giữa mấy kiện hàng. Anh thấy nhức óc, khó thở, đầu nặng như chì, máu dồn xuống đôi chân nhét chật cứng trong ủng. Anh thấy như nửa tỉnh nửa mê; túi bên phải anh để phiếu tín dụng, túi bên trái để giấy thông hành, trên ngực lại lủng lẳng một cái túi đựng mấy đồng tiền vàng và khâu kỹ bên trong. Cứ hễ chợp mắt lại mơ thấy một thứ gì đấy. Thế là anh giật mình tỉnh dậy, vội vàng sờ xem có còn không. Chẳng đêm nào được ngủ yên giấc. Suốt ngày cứ như thấy có kẻ đến cướp đến trấn lột. Rồi mũ, ô, gậy quặc trên mui xe cứ đung đưa và vào đầu vào mặt làm anh bứt rứt khó chịu.
Cảnh vật xung quanh vĩ đại, oai nghiêm, những cánh rừng từng nhô ra trên vách núi dựng đứng, đỉnh núi khuất trong sương mù. Tuyết bắt đầu rơi, trời lạnh. Anh bắt đầu cảm thấy chán cảnh ngao du nơi đây. Anh nghĩ thầm:
- Ước gì lại được sang phía bên kia dãy núi Anpơ! Sang bên ấy sẽ được sống khí hậu mùa hè và được lĩnh tiền bằng phiếu tín dụng. Giá lạnh thế này chẳng muốn ở lại đất Thuỵ Sĩ nữa. Làm sao sang được bên kia núi nhỉ!
Điều mong ước của anh sinh viên lập tức được thực hiện. Chỉ một chớp mắt anh đã thấy ở bên kia dãy núi, trên đất ý, giữa Florăngxơ và Rômơ. Nước hồ Traxinen lấp lánh dưới ánh nắng chiều tà nom như vàng lỏng giữa màu xanh thẫm của núi non, nơi xưa kia Anniban đã đánh bại những cây du thụ xanh tươi một cách thanh bình. Bọn trẻ con mình trần đang chăn đàn lợn đen trong cánh rừng nguyệt quế màu hồng toả hương thơm ngát hai bên đường. Giá tôi có tài mô tả được đầy đủ cảnh tượng mỹ lệ nơi đây, chắc bạn đọc phải kêu lên: “Nước Ý đẹp quá!” Nhưng anh sinh viên của chúng ta và các du khách đi cùng xe với anh, chẳng ai reo lên như thế một lời nào.
Côn trùng và ruồi muỗi bay quanh chiếc xe. Họ lấy cành xim xua chúng đi nhưng không được. Không một người nào trong xe không bị chúng đốt cho sưng mặt. Chúng bâu vào cả mắt mặt những con ngựa kéo xe, làm ngựa phải vất vả mới nhìn ra đường đi. Từng đàn ruồi xông vào đốt chúng, người đánh xe liên tục xuống xe đuổi ruồi cho chúng. Lúc mặt trời lặn, gió nổi lên làm cảnh vật rung chuyển. Núi non toàn một màu xanh ngắt. Đến tận nơi ngắm mới thấy thật là hùng vĩ. Những lúc này du khách đang đói bụng. Họ mong được gặp một quán trọ để ăn nghỉ hơn là cảnh đẹp thiên nhiên.
Lúc qua một cánh rừng ô-liu, anh sinh viên thần học lại nhớ về tổ quốc mình. Anh thấy những cây ô-liu ấy không đẹp bằng những cây liễu già xù xì đấy mấu nơi quê hương mình. Đi thêm một quãng nữa, họ đến một quán trọ quạnh hiu. Trước cửa quán là một tốp ăn mày, người thì chân thọt, người thì mụn nhọt đầy tay, người thì tay thọt đến tận khuỷu. Họ thi nhau kêu xin cứu giúp, giọng rền rĩ xé ruột xé gan. Anh sinh viên vất vả lắm mới thoát khỏi vòng vây của họ, để vào quán trọ. Chủ quán là một mụ già, quần áo bẩn thỉu, đi đất, tóc xoã, miệng mỉm cười, trông gớm ghiếc như con quỷ cái, ra mời khách. Cửa quán buộc bằng dây thừng, trần nhà đầy dơi đậu, một mùi hôi kinh khủng vào mũi.
Một khách hàng hỏi:
- Dọn bàn ăn xuống chuồng ngựa có được không, bà chủ. Xuống đấy chỉ có riêng mùi phân ngựa, chứ ở đây đủ mọi thứ mùi, ngồi đây ăn sao nổi.
Bà chủ quán hiểu ý, ghé mở cửa phòng cho thoáng; nhưng cửa vừa mở, cả đoàn ăn xin xô đến, van nài:
- Xin các ông các bà cứu khổ cứu nạn, giúp cho kẻ khốn cùng.
Nhà hàng bưng mâm ra. Vừa đặt mâm xuống mùi hạt tiêu và dầu xả xông lên. Trứng thì ung, thịt gà thì khét, rượu vang thì pha, khó uống quá, đắng như thuốc.
Đêm ngủ không an toàn. Khách phải lấy xích sắt cửa, thay nhau thức để canh gác. Trong nhà không khí ngẹt thở. Bên ngoài lũ ăn mày vẫn lảm nhảm: “Xin các ông các bà cứu khổ cứu nạn, giúp cho kẻ khốn cùng.”
Trong lúc còn đang mắt nhắm mắt mở, anh sinh viên thần học cứ tưởng mình đang trên giường một căn phòng, giữa thủ đô Côpenhagơ, dưới kia là mảnh vườn nhỏ có cây táo và cây mận.
Đến lúc tỉnh hẳn, anh ta mới nhớ ra rằng mình đang trên đường đi du lịch tại nước ý. Dần dần anh nhớ ra những nhọc nhằn vừa trải qua và những chán ngán gặp phải trên đường. Rồi anh nằm chen chúc trên một ổ rơm hôi hám, chốc nữa mới dậy lại ngồi vào bàn ăn món gà khét lẹt, trứng tráng ung, rượu vang pha uống đắng như uống thuốc trong một căn phòng bí hơi, vừa ăn vừa nghe lũ ăn này lảm nhảm ngoài cửa: “Lạy ông, lạy bà, cứu khổ cứu nạn, giúp kẻ bần cùng”.
Anh sinh viên nghĩ bụng:
- Giá đi du lịch mà chỉ đem theo cái hồn thôi thì khoái biết mấy! Chứ như thế này thì phiền toái quá! Ước gì mình chỉ có linh hồn không thôi nhỉ. Như vậy khoái hơn, cứ như thế này chẳng khoái tí nào!
Anh sinh viên nghĩ như thế bỗng dưng anh thấy mình đang ở quê nhà. Rèm trắng dài buông rủ trên các cửa sổ. Giữa phòng đặt một chiếc quan tài sơn đen, trong đó xác anh sinh viên đang nằm ngay ra bất động, còn linh hồn thì đang chu du thiên hạ.
Một học giả Aten cổ đại là Xôlông đã có lần nói:
“Đừng có vội vàng nhận định ai sung sướng trước khi người ấy chết”.
Câu nói ấy của nhà học uyên thâm đã được thể hiện trong câu chuyện tôi kể trên đây.
Hai cái bóng bước vào phòng. Đó là thần Trừng phạt và sứ giả của thần Hạnh phúc. Hai thần ghé xuống nhìn xác chết.
Thần Trừng phạt hỏi:
- Đi giầy hạnh phúc đã đem lại hạnh phúc gì cho người trần?
Thần kia trả lời:
- Đã đem cái chết dịu dàng, cái chết giữa tuổi thanh xuân cho anh ta trước khi anh ta phải nếm mùi khổ hạnh của cuộc sống.
- Cô nhầm rồi! Thần trừng phạt lại nói. – Anh ta đã chết quá sớm. Sống chưa hết kiếp. Do vậy tuy anh ta có quyền hưởng hạnh phúc sau nhiều thử thách gian lao, nhưng anh ta đã không được hưởng. Ta sẽ thực sự cứu giúp anh ta.
Nói rồi thần trừng phạt tháo đôi giầy hạnh phúc từ chân anh ra. Anh sinh viên bỗng tỉnh dậy. Cả thần Trừng phạt lẫn đôi giầy biến mất.

Đôi giày hạnh phúc phần cuối tại chuyên mục Truyện Cổ Tích trên website: doctruyen24h.mobi

Đôi giầy hạnh phúc

Trong một ngôi nhà, cạnh Hoàng trường mới, phố Đông, thành Côpenhagơ, chủ nhà đang tiếp khách. Khách hôm ấy rất đông, chủ nhà vốn là hiếu khách, hơn nữa là để được mời lại.
Khách khứa người thì tập trung vào bàn thờ, người thì xúm nhau trò chuyện. Xen vào nhiều chuyện khác, họ bàn đến thời Trung Cổ. Hầu hết cho rằng thời ấy không hơn thời nay, chỉ riêng ngài hội thẩm Knap và thêm bà chủ nhà kiên quyết phản đối ý kiến ấy. Hai ngài cho rằng từ trước tới nay, thời vua Hanx là thời đại huy hoàng nhất, hạnh phúc nhất.
Lúc này ngoài phòng đợi, đầy áo choàng, gậy chống, ô, giầy, có hai người hầu gái, một già một trẻ. Nhưng khách đã nhầm, hai bà không phải là người hầu phòng. Hai bà là hai nàng tiên. Cứ nhìn họ mà xem: bàn tay thanh tú, dáng ngồi, điệu đi lịch sự. Quần áo của họ cũng khác thường, đầy vẻ tao nhã.
Nàng tiên trẻ là thị tỳ của người hầu phòng của Thần may rủi, còn bà tiên già là Thần trừng phạt. Nàng tiên trẻ có nhiệm vụ đi phát của Thần may rủi. Bà tiên Thần trừng phạt có nét mặt nghiêm khắc đi kiểm soát kết quả của công việc.
Hai bà đang kể cho nhau nghe những công việc đã làm hôm ấy. Nàng tiên thị tỳ nói mới làm được mấy việc lặt vặt: giữ cho chiếc mũ khỏi bị ướt mưa, chuyển cho người tài lời chào mừng của một kẻ vô lại nổi tiếng và mấy việc nữa cũng đại loại như thế. Nhưng nàng còn phải làm một việc nữa, một việc dị thường là đem đôi giầy làm quà cho người lớn dưới trần. Đôi giầy có phép lạ hễ ai xỏ chân vào nhà thì muốn đi đến đâu hoặc muốn sống lại thời đại nào cũng được ngay tức khắc. “Thật là sướng!” Nàng kết luận.
- Chưa chắc đâu! Bà tiên già, không khéo lại khổ gần cửa ra vào, ai nhặt được thì nhặt.
Đêm đã khuya, chuyện đã vãn, ngài thẩm phán ra về. Ra đến cửa, đầu óc còn đang mãi nghĩ về thời đại vua Hanx, ngài thẩm phán xỏ nhầm vào đôi giầy người thì tỳ vừa đặt. Đường về nhà ngài qua phố Đông, ngài bước về phía ấy, nhưng phép lạ của đôi giày lại đưa ngài quay trở lại thời vua Hanx, chân ngài lội vào bùn và qua các vũng nước, vì thời ấy các đường phố chưa đổ nhựa, hè phố chưa lát bê tông như bây giờ. Ngài vừa đi vừa ca cẩm:
- Bùn khiếp thật! Hè phố chẳng còn, đèn cũng tắt ngấm.
Trăng chưa mọc, sương mù nhiều, mọi vật chìm trong đêm tối. Ở một góc đường gần đấy có treo một ngọn đèn hắt ánh sáng xuống pho tượng đức mẹ nhưng ánh sáng mờ quá phải đến tận nơi mới nhìn rõ, trông thấy đức mẹ đang bế Hài đồng trên tay. Ngài nghĩ thầm:
- Có lẽ đây là một cửa hàng mỹ phẩm mà người ta quên cất mẫu quảng cáo.
Vừa lúc ấy có hai người mặc quần áo thời cổ vượt lên trước ngài thẩm phán nói:
- Họ ăn mặc lạ nhỉ. Có lẽ họ vừa đi dự buổi khiêu vũ trá hình về.
Có tiếng trống và tiếng sáo nổi lên, ngài đứng lại thấy một đám rước diễu qua. Đi đầu là trống rồi đến thị vệ cầm cung tên và binh khí. Người chỉ huy đám rước là một nhà tu hành. Ngạc nhiên với cảnh lạ, ngài lẩm bẩm: “Sao lại thế nhỉ? Người ấy là ai?” Có tiếng trả lời:
- Đấy là Đức giám mục Xilen.
- Sao đức giám mục lại thế? Có lẽ không phải đâu, các ngài nhầm đấy.
Mải suy nghĩ, chẳng nhìn đường, ngài hội thẩm đi qua phố Đông và quảng trường Cầu lớn. Không sao tìm được cái cầu bắc sang quảng trường Cung điện, ngài chỉ thoáng nhìn thấy một con sông rộng và gặp hai người đang ngồi trên một chiếc thuyền. Họ hỏi: “Ngài có muốn qua sông Hôlông không?
- Qua sông Hôlông à? Sao lại qua sông? Hỏi vớ vẩn. Tôi muốn đến ngõ Crixtianhavu khu phố chợ (ngài hội thẩm quên là mình đang sống trở lại thời vua Hanx)
Thấy hai người kia ngạc nhiên nhìn ngài, ngài nói tiếp:
- Các ông chỉ dùm cho tôi lối lên cầu. Chẳng có đèn đuốc gì cả, tối đen như mực, lội bì bà bì bõm như đi trong ruộng lầy vậy. Bùn ơi là bùn!
Ngài càng nói chuyện với hai người thuỷ thủ lại càng ngạc nhiên, chẳng hiểu họ nói gì. Ngài vùng vằng:
- Chẳng thể nào hiểu được tiếng địa phương của các bác!
Ngài bực tức quay phắt đi. Ngài không thể nào tìm ra được cái cầu, ngay cả lan can dọc bờ sông cũng chẳng có. Ngài lẩm bẩm:
- Loạn thật!
Ngài chưa bao giờ thấy thời đại của ngài đang sống lại thảm hại đến thế. Ngài nghĩ bụng:
- Có lẽ phải gọi một cái xe mà đi mới được.
Nhưng tìm đâu ra xe? Trông mỏi mắt cũng chẳng có cái nào. Ngài tự nhủ:
- Phải quay về Hoàng trường mới mà kiếm cái xe chứ không thì chẳng đến được Crixtianhavu được.
Ngài thẩm phán quay trở lại phố Đông; đi gần đến phố thì trăng lên. Trông thấy cổng thành phía Đông, ngài kêu lên:
- Trời ơi! Người ta dựng cái đài này ở đây để làm gì kia chứ?
Cuối cùng ngài thẩm phán cũng tìm ra được cỗ xe ngựa và ra đến quảng trường mới hiện nay. Thời xưa chỗ này là một bãi trống chỉ có cỏ mục và một vài bụi cây; có một con sông đào chảy qua, đổ ra biển. Bờ bên kia có một vài túp lều gỗ tồi tàn của những thuỷ thủ xóm Halăng ( vì vậy nơi ấy nay đặt tên là mũi Halăng).
Ngài thẩm phán nghĩ bụng: ma quỷ ám mình hay mình say rượu thế này? Sao lại lung tung chẳng còn hiểu thế nào nữa! Có khi mình ốm rồi!
Ngày quay lại. Vào đến trong phố, ngài nhìn thấy rõ nhà cửa hơn, đa số vách thủng bằng thanh, mái lợp rạ.
Ngài lẩm bẩm:
- Sao người khó chịu quá! Mình chỉ uống có một cốc rượu pha đường thôi thì sao thấy khó chịu thế? Lại cho mình rượu pha đường với hồi nóng nữa chứ. Thật là điên! Các bà vợ quan nội thần này ác thật! Hay là mình quay lại để cho họ biết họ làm ăn linh tinh. Nhưng chắc gì họ còn thức? Mà như vậy cũng dở lắm.
doi-giay-hanh-phuc
Ngài tìm sân nhà, nhưng tìm không ra. Ngài lẩm bẩm:
- Không sao nhận ra phố Đông nữa. Chẳng còn cái cửa hiệu nào! Chỉ thấy trên những túp lều cũ kỹ tồi tàn như ở Rôtxôkin hay ở Rinhxtet. Mình ốm thật rồi! Nhà quan nội thần đâu rồi nhỉ? Quái thật! Sai ta lại ốm thế này! Thấy một nhà có ánh sán lọt qua khe cửa. Đây là một quán trọ thời vua Hanx, một quán rượu bia. Căn phòng giống như quán rượu ở vùng Honxtanh. Trong quán đang có một số lính thủy, mấy người thành thị và hai nhà bác học. Cả mấy người đang trò chuyện náo nhiệt, trước mặt mỗi người một cốc bia. Ngài hội thẩm mở cửa bước vào. Họ vẫn tiếp tục trò chuyện không để ý đến ngài. Bà chủ quán chạy đến. Ngài hỏi:
- Thưa bà, tôi thấy trong người khó chịu như muốn ốm. Bà có thể giúp tôi gọi hộ một cái xe chở tôi về Crixitianhavu được không?
Bà chủ quán ngó ra, lắc đầu trả lời bằng tiếng Đức. Ngài hội thẩm cho là bà không biết tiếng Đan Mạch, nên hỏi bà ta lần này bằng tiếng Đức. Nghe tiếng nói và cách ăn mặc của ông thẩm phán, bà chủ quan tin rằng ông là người nước ngoài. Bà ta hiểu là ông ấy ốm và mang ra cho ông một cốc nước mới hứng ở vòi ra nhưng có vị mặn. Nhắp thử, ngài lắc đầu.
Ngài ôm trán thở dài suy nghĩ về những hiện tượng kỳ lạ chung quanh mình.
Thấy bà chủ quán gấp một tờ giấy khổ rộng, ngài hỏi:
- Có phải tờ báo “Ban ngày” mới ra tối nay đấy không?
Bà ta không hiểu ngài muốn nói gì, cứ chìa cho ngài tờ giấy đang gấp. Đấy là một tờ tranh khắc gỗ, vẽ một hiện tượng thiên văn như ông đã nhìn thấy ở Côlônhơ. Ngài nói:
- Bức tranh này cổ lắm! Bà làm thế nào mà kiếm được bức tranh hiếm có này? Quý đấy! Nhưng lời giải thích ghi trong tranh không hợp thời nữa, nó có vẻ hoang đường. Bây giờ người ta gọi hiện tượng ấy là một bắc cực quang, do điện gây ra.
Những người ngồi gần đấy thấy ngài thẩm phán nói đều lấy làm ngạc nhiên. Một người đứng dậy, cung kính nói:
- Thưa ngài, chắc hẳn ngài là một nhà bác học đại tài!
- Không đâu! Tôi chỉ mỗi thứ biết một tí, như mọi người thôi.
- Ngài khiêm tốn quá!
- Tôi biết thế thì nói như thế, các ngài biết thêm gì cho tôi được học.
Ngài hội thẩm nói với người kia: “Ngài có thể cho tôi biết quý danh được không?”
- Tôi là tú tài thánh thư, người kia trả lời.
Học vị của người ấy cũng phù hợp với cách ăn. Nhưng ngài hội thẩm nghĩ thầm:
- Đây hẳn là một lão hương sự loạn óc, còn sót lại ở một nơi hẻo lánh của xứ Giuytlăng.
Người xưng là tú tài thánh thư nói thêm:
- Đây không phải là một diễn đàn, nhưng mời ngài cứ tiếp tục phát biểu. Chún tôi rất thích được nghe, chắc là ngài am hiểu các tác gia thời xưa.
- Vâng, sách thời xưa bổ ích lắm, tôi rất thích đọc. Tôi cũng biết nhiều sách thời nay. Nhưng những “Truyện hàng ngày” thì tôi không thích vì cuộc sống thực tế cũng đã đủ lắm rồi.
- “Truyện hàng ngày” là truyện gì thưa ngài?
- Là những quyển tiểu thuyết mới viết hiện nay.
- Tôi thấy những quyển tiểu thuyết hiện nay cũng thú vị đấy chứ ạ! Đức vua cũng hay đọc. Người thích nhất cuốn “Ipven tiên sinh và Gôđiô tiên sinh” kể chuyện vua Actuýt và các hiệp sĩ bàn tròn.
- Chuyện ấy tôi chưa được đọc. Chắc là sách mới của nhà xuất bản Giêmen.
- Ông Giêmen là tác giả cuốn truyện có phải không?
Cái tên ấy nghe xưa lắm nhỉ. Đúng là tên nhà xuất bản đầu tiên của nước Đan Mạch đấy.
- Đúng ạ. Nhà in đầu tiên của chúng ta là nhà in Giêmen.
Câu chuyện đang vui bỗng có người nói đến trận dịch hạch xảy ra gần năm ấy nên họ cũng nhắc luôn cả chuyện quân cướp người Anh xông vào tận hải cảng cướp thuyền bè. Nghe thấy thế ngài hội thẩm lại tưởng họ nói về cuộc mưu sát năm 1801, nên những lời ngài nguyền rủa quân Anh trong vụ mưu sát ấy cũng vẫn khớp với câu chuyện.
Nhưng về sau câu chuyện trở nên chuệch choạc. Cứ ông nói gà bà nói vịt, chẳng bên nào hiểu bên nào. Họ ngẩn người ra nhìn nhau. Đến khi bí quá, vị tú tài phải phát biểu bằng tiếng Latinh hy vọng với thứ tiếng ấy người ta sẽ hiểu ông. Nhưng cuối cùng thì ngài thẩm phán không hiểu ông, mà ngài thẩm phán nói gì ông cũng không hiểu.
Bà chủ kéo tay áo ngài thẩm phán hỏi:
- Bây giờ ngài thấy thế nào rồi?
Câu hỏi của bà chủ quán làm ngài sực tỉnh. Vì mải nói chuyện, ngài đã quên tất cả những sự việc vừa xảy ra lúc trước. Rồi khi nhớ lại chuyện cũ ngài choáng người kêu lên:
- Đây là đâu thế này, các ông?
Một vị khách hô lớn:
- Cùng nhau cạn chén, các vị! Rượu mật ong pha với bia xứ Brêmơ. Xin mời ngài chạm cốc với chúng tôi.
Hai chị hầu bàn bừng khay ra, cúi chào khách rồi rót rượu.
- Rượu gì thế này? Ngài hội thẩm tự hỏi, không dám uống.
Nhưng thấy người ta mời chào quá nên buộc lòng phải uống vậy. Có người bảo ngài say rượu, ngài tin vậy và nhờ thuê giúp cho một cái xe ngựa để về nhà. Nghe thấy ngài nói, người ta lại tưởng ngài nói tiếng Nga. Ngài chưa tiếp xúc với những người thô lỗ như thế bao giờ. Đất nước như lùi lại thời tà giáo. Ngài nghĩ thầm:
- Đây đúng là giờ phút kinh khủng nhất trong đời mình.
Ngài bèn chui xuống gầm bàn để bò ra cửa. Ngài bò ra gần đến nơi thì có người trông thấy. Họ vội nắm cẳng ngài lôi lại. Đôi giày tụt ra khỏi chân, phép lạ cũng biến mất. Ngài hội thẩm nhìn thấy trước mặt là một cột đèn đang chiếu sáng, còn phía sau là một toà nhà lớn. Bên cạnh ngôi nhà lớn là nhiều ngôi nhà khác đang đứng xếp hàng tiếp theo nó. Lúc này ngài đang ở phố Đông. Ngài vẫn còn đương bò dưới
đất trước một cái cửa. Ngài trông thấy người tuần canh đang ngủ say trước mặt mình. Ngài ngồi lên, chung quanh và kêu lên:
- Quái thật! Sao mình lại nằm giữa đường mà ngủ thế này nhỉ. Giữa ngay phố Đông! Đèn ơi! Cảm ơn mày nhé! Mình chỉ uống một cốc rượu pha đường mà say như thế! Khiếp thật!
Hai phút sau ngài đã lên xe trở về Crixtinanhavu. Ngài nhớ lại những lo sợ khổ ải vừa trải qua và thầm khen cuộc sống thực tại sung sướng và hạnh phúc, thấy rõ ràng thời đại chúng ta chưa hoàn hảo lắm, nhưng đã hơn nhiều cái thời đại ngài sống lúc nãy.
Bác tuần canh nghe tiếng động bừng tỉnh và reo lên:
- Ơ này! Đôi giầy của ai thế này? Chắc là của quan trung uý trên gác này. Nhưng sao ngài lại để giầy ở đấy thế?
Bác tuần canh đã định bấm chuông gọi cửa đem trả lại giầy cho ngài. Nhưng bác thấy như vậy các nhà bên cạnh sẽ mất ngủ nên lại thôi, để sáng mai sẽ báo cho ngài biết.
Rồi buồn tay, bác sỏ thử giầy vào chân, miệng khen:
”Vừa khít. Da mềm quá! Đi êm!“
Xỏ thử vào giầy rồi bác ngồi nghĩ:
- Ngài trung uý vậy mà sướng! Chẳng vợ chẳng con, không bấn bíu gì. Tối đến lại đi tiêu khiển đến các giới giàu sang. Ước gì mình được như ngài thì sướng.
Mong được ước thấy. Do phép lạ của đôi giầy, bác tuần canh vừa ước thế thì liền nhập cả hồn lẫn xác và quan trung uý. Bác thấy mình đang sống trên gác, trong căn phòng của quan trung uý, tay cầm một mảnh giấy là bản thảo một bài thơ do quan trung uý viết. Đúng là của quan trung uý. Trong đời ai mà chả có lúc hồn thơ lai láng. Lúc ấy người ta viết những ý nghĩ của mình ra giấy thế là thành thơ. Nhưng bác tuần canh không thích thơ và cũng không thích làm quan trung uý. Mới thử một tí mà bác đã thấy chán, tiếc cái nghề tuần canh của mình, nó vất vả nhưng mà thích.
Do phép lạ của đôi giầy, bác đang thở dài thì từ trung uý bác lại thành tuần canh, mừng là đã từ bỏ được cái nghề mới của mình. Vậy là thân tuần canh lại trở về với phận tuần canh.

Đôi giày hạnh phúc tại chuyên mục Truyện Cổ Tích trên website: doctruyen24h.mobi

Thứ Hai, 22 tháng 7, 2013

Chiến công của Hercule phần 14 Hết

Chương XIV : Xuống địa ngục

Chính Eurysthée là người đích thân đợi Hercule trước lâu đài. ông ta đã hay tin chàng đã kết thúc tốt đẹp cuộc chinh chiến và mang về một giỏ táo vàng từ vườn của các Hespérides.

Chính Junon đã tới báo cho ông ta tin đó và bày tỏ sự bực bội của mình. Eurysthée đã phản đối mạnh mẽ. Trong tất cả mọi chuyện, chính ông ta là người luôn tuân lệnh. ông ta thấy mình không phải có trách nhiệm trong sự thất bại liên tục vừa qua. Nếu Junon không thể làm cho Hercule thất bại, thì ông ta có thể làm điều gì hơn nữa?

Đôi mắt của nữ thần đen như nước sông Styx nơi địa ngục và sắc nhọn, có thể giết chết Eu-rysthée như những mũi tên tẩm độc. Junon giờ đây chống lại cả Eurysthée, cả Hercule và cả chồng mình là Jupiter mà bà ta nghi ngờ đã giúp Hercule trong mọi việc. Phải kết thúc mọi chuyện với “cái tên kiêu ngạo” này bằng cách tống hắn vào vương quốc của những xác chết: Linh hồn của hắn sẽ lạc lối, lang thang không mục đích giữa các bức tường màu đen nơi Hadès ngự trị.

Đây là thử thách lần thứ mười hai và cũng là lần cuối cùng mà chàng sẽ không thể trở về nữa.

Junon tin chắc như vậy và nói với Eurysthée:

- Ngươi có thể thông báo với hắn rằng đây là thử thách cuối cùng của hắn. Tất cả những ai đã xuống địa ngục đều không thể trở về được nữa!

Nữ thần cười rất lạ, nụ cười khiến Eurysthée rùng mình. ông ta chợt thấy thương hại Hercule; ông ta hẳn không muốn ở vào địa vị của chàng.

Những cơn ớn lạnh chạy dọc xương sống của Eurysthée. Nụ cười của Junon khiến ông lạnh toát cả người. Lúc từ biệt vua thành Tirynthe, nữ thần nói với một giọng nặng nề:

- Hãy yêu cầu hắn ta xuống địa ngục mà không đem theo bất cứ một thứ vũ khí nào.

Eurysthée gật đầu đồng ý. Khi Junon đã tan biến vào không gian, Eurysthée cảm thấy một.luồng khí lạnh đang len lỏi trong huyết quản mình.

Khi Hercule đến, bên cạnh Eurysthée còn có Coprée và nhiều vị chức sắc khác của thành Tirynthe. Một cuộc hội họp tuy đông đủ như thế nhưng không lấy gì làm tốt lành. Hercule đặt giỏ táo vàng xuống dưới chân nhà vua.

- Tâu đức vua! Như ngài đã yêu cầu, tôi đã mang về đây cho ngài những quả táo vàng của vườn người Hespérides. Ngài có hài lòng về kẻ tay sai của ngài không?

Eurysthée tỏ ra không quan tâm đến lời nói của Hercule. Câu nói của chàng tan nhanh trong gió.

- Hercule này, – nhà vua bắt đầu, – một lần nữa ngươi lại hoàn thành nhiệm vụ và ngươi có thể thấy rằng ta vui mừng vì điều đó.

Vẻ mặt u tối của Eurysthée đối nghịch hẳn với những lời lẽ của ông ta. Có chuyện gì xảy ra ở thành Tirynthe vậy?

- Ta rất hãnh diện về những quả táo vàng này. Ngươi đã hoàn toàn chiến thắng. Chính vì thế ngày hôm nay ta vui mừng báo cho ngươi biết rằng ta trả tự do cho ngươi…

- Tôi được tự do rồi ư, tâu đức vua? – Her-cule bồn chồn hỏi.

- Đức vua chưa nói hết câu. – Coprée xen vào. – Hãy nghe cho hết đã!

- Đúng! Ngươi được tự do. Miễn là ngươi thỏa mãn thử thách cuối cùng…

Đức vua dừng lại, hơi trịnh trọng một chút.

- Ta hứa trước thần dân thành Tirynthe là sẽ trả tự do cho ngươi ngay sau thử thách cuối cùng. Những năm qua, ngươi đã chứng tỏ sự trung thành của mình. Thật vô lý khi tiếp tục buộc ngươi phải chịu đựng mọi thử thách trên mặt đất này. Ta long trọng tuyên bố rằng món nợ của ngươi sẽ được trả vào cuối cuộc chinh phục này.

- Thần xin dân chúng thành Tirynthe làm nhân chứng. Vậy thần phải làm gì?

- Ngươi hãy xuống địa ngục và mang con chó gác cửa Cerbère về đây.

- Xuống địa ngục ư? Nhưng thưa đức vua, ngài biết rằng không có một người trần gian nào xuống đó mà lại trở về được.
- Ngươi không phải là một người tầm thường, nếu không ngươi đã thất bại trong những.công trình trước rồi. Con sư tử Némée không phải là một con sư tử tầm thường ngươi cũng đã hạ được nó. Giờ đây ngươi phải đi xuống địa ngục mà không mang theo vũ khí gì. Hãy đưa cho ta cung tên, gươm, chùy của ngươi. Dù ngươi giết được con chó Cerbère hay bắt sống nó mang về đây, ngươi cũng phải đối mặt với nó bằng tay không và với cả những trở ngại khác mà ngươi sẽ gặp.

- Không có vũ khí ư? Nếu ngài muốn tôi chết, hãy ra lệnh ngay lập tức, đừng mất thời gian nữa.

- Ta không muốn ngươi chết. – Eurysthée dối trá. – Ta chỉ thông báo cho ngươi công việc cuối cùng, và ngươi sẽ được tự do.

Không biết vì kiêu hãnh hay tức giận, Her-cule bước tới đặt trước Eurysthée, bên cạnh giỏ táo vàng, tất cả vũ khí của chàng, những chiến cụ đã giúp chàng chiến thắng những quái vật, những địch thủ ghê gớm nhất.

- Tốt lắm. – Eurysthée nói và lại cảm thấy luồng khí lạnh chạy rần rật trong máu.

- Tâu đức vua, vì đây là thử thách cuối cùng, hãy cho phép tôi có một lời thỉnh cầu.

- Lẽ nào ngươi dám! – Coprée la lên.

- Hãy để cho anh ta nói. – Nhà vua can thiệp.

- Chúng ta không bị buộc phải chấp nhận lời thỉnh cầu này nhưng ít nhất thì anh ta cũng có quyền được nói.

Hercule cúi gập người xuống, tỏ vẻ ưng thuận và khuất phục.

- Tôi muốn được khoác bộ da của con sư tử Némée, con sư tử mà tôi đã chinh phục được.

- Khoác bộ da sư tử à? Nhưng tại sao? thế giới

- Đó là nhiệm vụ đầu tiên mà tôi đã thực hiện dưới lệnh của ngài. Và tôi hy vọng rằng tấm da thú này sẽ mang lại sự may mắn cho tôi.

- Khoác tấm da thú để giữ lấy linh hồn à? -Eurysthée bật cười ha hả. – Ta chấp thuận! Cho mang tấm da sư tử Némée lại đây cho Hercule!

Coprée, hãy nhanh lên!

Coprée bực bội nhưng vẫn tuân lệnh. ông ta thầm nghĩ: Mong cho Hercule khoác tấm da con sư tử khốn kiếp đó mà lang thang vĩnh viễn nơi địa ngục.

Hercule khoác tấm da sư tử lên vai và không nhìn ai, không nói một lời nào, rời Tirynthe đến.địa ngục. Càng tới nhanh chàng sẽ càng sớm được tự do. Chàng chạy qua cổng thành.

- Lại có một tên muốn chết mau chóng thế!…

- Coprée mỉa mai.

Để tới được địa ngục thì có thể đi mọi con đường. Chỉ cần đào một cái hố nào đó và đi mãi xuống, cánh cửa địa ngục sẽ mở ra. Theo quy luật chung thì chẳng cần tốn nhiều thời gian.

Hadès không bao giờ làm trái ý muốn của các vị khách, nhất là những người muốn chia sẻ bữa ăn tối trong lửa. Một khi bước chân của các vị khách đã bước qua mặt đất, những con đường dài buồn thảm cứ mở ra tới tận dinh thự của Hadès.

Hercule liều mình tới bán đảo Ténare, rất xa Tirynthe, con đường dẫn thẳng tới sông Styx, nơi Charon đưa những người chết tới chỗ Hadès.

Đường hầm dẫn đến vương quốc người chết hết sức hoang vắng. Càng đi sâu vào, Hercule càng thấy khí ẩm tỏa ra từ những tảng đá xanh xao xâm chiếm dần vào cơ thể chàng. Cho dù chàng đã khoác tấm da sư tử Némée. Càng đi, lớp đất mềm dưới chân chàng càng cứng rắn hơn và không bao lâu, nó đã là một lớp đá lửa, kết thành một bàn chông sắc như dao. Không khí lạnh quẩn trong hầm tối.

Hercule không còn khái niệm về thời gian nữa. Chàng đã đi sâu vào lòng đất từ lúc nào?

Con đường hầm ban đầu còn thoai thoải, giờ đây là những khoảng rộng có độ nghiêng đến chóng mặt. Những con nhện khổng lồ dệt những tấm lưới cứng như đá, va đập vào chàng làm xây xước da mặt và cơ thể chàng trước khi bị “vỡ”. Nhiều con dơi màu nâu đậm bay với tốc độ chóng mặt trước mặt chàng, có vẻ như dẫn đường cho chàng theo. Thật ra Hercule không có sự chọn lựa: Con đường hầm, từ chỗ đi xuống, chỉ dẫn tới một vực sâu.

Càng tiến về phía trước, đường hầm càng dốc hơn, các vách ngăn hai bên càng sát lại, không khí càng nóng hơn. Tấm áo da sư tử làm chàng cảm thấy khó chịu. Chàng thấy hết sức nóng nực, nhưng dù thế nào, chàng cũng không thể cởi bỏ tấm da được. Chàng mơ hồ cảm thấy đó là thế mạnh, là vũ khí duy nhất của mình, mặc dù chàng không giải thích được..Rồi Hercule lại phải khom mình mới tiến lên được, rồi lại phải bò như một con thú. Khi chàng phải trườn đi, chàng nghĩ rằng thế là hết và đã đến vương quốc của cái chết. Eurysthée quả có lý. Những tháng năm ròng rã chiến đấu chuộc lại lỗi lầm cuối cùng kết thúc ở đây với cái chết ngu xuẩn và phi lý.

Máu từ những vết xây xước chảy ròng ròng trên người, cơ bắp của chàng cứng đờ, đầu óc nặng nề và đường đi ngày càng hẹp hơn. Nghẹt thở, chàng dừng lại. Chàng chấp nhận chết ở đây mà chưa hoàn thành nhiệm vụ, nhưng không phải một cái chết khốn khổ. Chàng phải lấy lại sức lực để có thể chết trong danh dự. Hercule nằm ngủ một giấc trong không khí nóng ghê người ấy.

Chàng không biết mình ngủ trong bao lâu.

Cái nóng đánh thức chàng dậy. Từ đằng xa, một luồng ánh sáng lay động. Hercule tiếp tục cuộc hành trình.

Đột nhiên, khi cái nóng đã trở nên khủng khiếp, không chịu nổi, đường hầm lại mở rộng ra. Hercule có thể đứng thẳng lên được. Chàng tiếp tục cất bước. Rồi đường hầm mở ra tới một gian phòng rộng mênh mông, có mái vòm. Sức nóng khiến cho đá cũng tan thành nước. Hercule kinh hoàng nghĩ rằng mình cũng sẽ tan thành nước.

Có một chiếc thang được đẽo vụng về trong đá nối liền về phía cuối đường hầm với một gian phòng nữa cũng rộng mênh mông. Trên tường có những ngọn đuốc đang cháy, đó là ánh sáng mà chàng nhìn thấy từ ban nãy.

Hercule bắt đầu trèo lên những bậc thang trơn và nóng bỏng. Khi lên đến lưng chừng, chàng đã trông thấy tận cùng của cái hang. Một dòng nước đen và sôi sùng sục chia cái hang ra làm đôi. Bên bờ gần nhất có một cái thuyền đang đợi sẵn.

Hercule tiến lên. Có một người đang đứng trên thuyền. Đó là Charon, người chở những người chết tới dinh thự của Hadès và được trả tiền thù lao xứng đáng.

Khi Charon thấy Hercule khoác tấm da sư tử, và máu ở trên người chảy ròng ròng, ông ta sợ hãi tới mức phải thốt lên:.- Ngươi làm ta sợ quá, ta không đòi hỏi gì cả. Trèo lên đây, ta sẽ chở ngươi đi.

Và Charon chống cây sào dài trong làn nước đẩy thuyền đi. Có lẽ đây là chuyến đò đi với tốc độ nhanh nhất trong đời ông ta. Hercule im lặng, chàng không nói một câu, không nhìn người lái đò lấy một lần. Sau khi thuyền cập bến, Hercule bước xuống và nhắm thẳng phía trước tiến bước.

Chẳng bao lâu chàng đã đứng trước những bức tường xám của dinh thự của Hadès. Những cánh cửa to bằng thép mở rộng.

Chẳng có ai đón tiếp chàng cả. Hercule đứng trước cửa chính và chờ đợi. Một giọng nói đột ngột vang lên:

- Ngươi vội đến đây để chết à Hercule?

- Tôi không có ý định đó.

- ồ! Vậy ra ngươi ngu xuẩn đến thế sao?

Trong chiếc áo choàng hai màu đỏ đen, Hadès nhìn Hercule chằm chằm với ánh mắt chế giễu:

- Tôi đến đây tìm con chó Cerbère của ngài.

- Tốt lắm… Ngươi có biết rằng ta không có cơ hội để giải trí từ… vài kiếp rồi không?

- Phải chăng tôi phải giết ngài để bắt con chó Cerbère?

- Ngươi không biết rằng ta là Chúa tể của địa ngục à?

- Tôi cần gấp lắm, thưa ngài! Ngài sẽ giao Cerbère cho tôi hay tôi phải bắt nó?

- Ngươi làm ta rất thích thú, Hercule ạ…

Vậy thì ta sẽ tặng Cerbère cho ngươi nếu ngươi thắng được ta.

Và không chờ đợi câu trả lời của khách, Hadès cởi phắt áo khoác sẵn sàng lao vào cuộc đấu. Hercule vẫn giữ tấm da của sư tử Némée trên vai và nhảy phắt lên người Hadès, gầm rú như chính chàng là sư tử thật sự. Cả hai người ngã lăn ra đất.

Sức mạnh của Hercule tăng lên gấp bội, có thể đó là sức mạnh của con mãnh thú mà chàng mang tấm da của nó trên lưng. Hercule càng lúc càng thắng thế. Những cú đấm của Hercule rơi như mưa, như sấm sét lên người thần chết. Her-cule không cảm thấy những vết thương đau đớn nữa, và chàng đánh tới tấp như chưa bao giờ làm thế. Còn những cú đấm của Hadès thì chỉ như.những nốt muỗi chích. Cuộc chiến đấu dường như không có hồi kết thúc. Bởi vì nếu chàng chế ngự được Hadès, nghĩa là chàng đang đương đầu với một vị thần bất tử và dù có bị thương tích đến mấy cũng lành.

Hercule dừng lại đột ngột và nói với chàng:

- Dừng lại đi Hercule, ngươi đã minh chứng được lòng dũng cảm của ngươi rồi. Cuộc chiến đấu này sẽ được ghi dấu vĩnh viễn ở đây. Bởi vì ngươi đã dám so tài cùng ta, điều mà không một người nào dám làm cả. Ta muốn tặng ngươi con chó Cerbère. Ta biết rõ rằng Eurysthée, dưới lệnh của Junon đã buộc ngươi phải tới địa ngục. Số phận của ngươi không kết thúc tại đây. Ta tặng cho ngươi Cerbère để ngươi mang về Tirynthe chứng minh cho chuyến viếng thăm địa ngục này.

Sau đó, ngươi thả nó ra để nó còn quay lại làm nhiệm vụ trong vương quốc của cái chết.

- Tôi rất cảm ơn ngài, thưa Hadès! Thật là một vinh dự khi được so tài với ngài.

- Đó là niềm vui của ta. Bởi vì trong vương quốc này, chỉ có những linh hồn yếu đuối hay than vãn, rên rỉ… Nhưng nếu ngươi không trả lại Cerbère thì ngươi sẽ phải chết, Hercule ạ!

- Tôi vẫn chưa muốn chết, tôi đã nói với ngài rồi. Khi Eurysthée nhìn thấy Cerbère, nó sẽ được tự do ngay lập tức.

- Vậy thì ta tin ngươi.

Hadès khoác chiếc áo choàng dài vào và huýt gió. Ngay lúc ấy, một con chó ba đầu khổng lồ xuất hiện, gầm gừ. Những cái nanh của nó đen như nước sông Styx, hẳn phải là những vũ khí đáng sợ. Hercule thấy mình đã may mắn không phải chiến đấu với nó để mang về cho Eurysthée.

Cerbère ngày càng gầm dữ hơn. Hadès ra hiệu và con quái vật bỗng nhiên trở nên hiền lành như một con cừu.

- Hãy đi đi, Hercule. Đừng quên lời hứa.

Cerbère sẽ theo ngươi tới Tirynthe. Và sau đó…

- Sau đó, nó hoàn toàn tự do. Tôi sẽ lo việc ấy.

Cerbère cùng Hercule trở về, đi tới đâu nó cũng làm cho người qua đường hoảng sợ. Cuối cùng họ tới cổng thành Tirynthe. Cửa thành rộng mở nhưng hoang vu như sa mạc. Danh tiếng của Cerbère đã tới trước khi nó đến nơi..Hercule và con chó Cerbère tới trước lâu đài.

Chẳng có ai đợi họ cả. Chắc tất cả mọi người đều sợ hãi. Hercule phải hét lên để một ai đó phải xuất hiện.
Chỉ có Coprée run rẩy bước ra.

- Eurysthée trốn đâu rồi? – Hercule tức giận hỏi.

- Đức vua ủy thác cho tôi việc này.

- Ngài thấy đấy, tôi đã trở về từ địa ngục.

Và còn mang theo con chó Cerbère. Tôi nhắc lại lời hứa trước kia của Eurysthée: ông ta sẽ phải trả tự do cho tôi.

- Ngài đã tự do… – Coprée run run nói. -Bây giờ ngài hãy đi đi.

- Có gì đảm bảo cho ta khi đi qua cổng thành này?

- Nỗi sợ hãi của Eurysthée, đúng vậy, và con chó khổng lồ này, đó là sự bảo đảm của ngài.

Cerbère bắt đầu gầm gừ.

- Cerbère còn quý giá gấp mấy lần đức vua của ngài. – Hercule vừa nói vừa vuốt ve con chó.

Đó là những lời đối thoại sau cùng ở thành Tirynthe. Hercule quay gót và Cerbère theo sau.

Chàng rời bỏ vĩnh viễn thành phố này. Chàng đã chấm hết thời gian nô lệ ở đây và sống sót quay về sau mười hai chiến công lừng lẫy.

Chàng được tự do, cũng như Cerbère mà chàng thả ngay khi họ vượt qua cổng thành.

Cerbère chạy nhanh tới cái hang đầu tiên, rồi lao xuống, trở về xứ sở của cái chết và tiếp tục cuộc sống cạnh Hadès. Còn Hercule sẽ tiếp tục cuộc sống của mình và bắt tay vào những cuộc phiêu lưu mới.